Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giá Trị To Lớn Của Giáo Huấn Này

24 Tháng Sáu 201410:12(Xem: 14408)
Giá Trị To Lớn Của Giáo Huấn Này

Giá Trị To Lớn Của Giáo Huấn Này

 

Trao Truyền

Dalai LamaQUYỂN SÁCH NÀY, Đại Luận Những Giai Tầng Của Con Đường Giác Ngộ, dĩ nhiên được sáng tác bởi Tổ sư Atisa Dipamkara, một người Bengal đã đến Tây Tạng vào thế kỷ 11[1]. Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng. Atisa đã sáng tác một luận điển ngắn, Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ hay Bồ Đề Đạo Đăng Luận, với ý định cung cấp một cách bổ sung thành một thể thống nhất những giáo lý đa dạng của Đạo Phật dành cho những hành giả ở mọi trình độ năng lực tinh thần khác nhau[2]. Ngọn Đèn của Atisa đã trở thành tài liệu căn bản cho tất cả mọi giai tầng của con đường Giác Ngộ (lamrim). Trong ý nghĩa ấy, chúng ta có thể xem tác phẩm Đại Luận Những Giai Tầng Của Con Đường Giác Ngộ của Tông Khách Ba như một luận giải mở rộng, hay giải thích, bài luận ngắn của Atisa.

Tôi tiếp nhận sự trao truyền những lời dạy về Đại Luận này từ Trijang Rinpoche và Ling Rinpoche, những vị giáo thọ của tôi. Trijang Rinpoche đã tiếp nhận giáo huấn này từ thầy của ngài là Pabongka Rinpoche. Ling Rinpoche cũng ở trong dòng truyền thừa của Pabongka, nhưng thêm nữa, khi còn rất trẻ, ngài cũng từng được sự trao truyền của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.

 ling


Đức Phật

Đại Luận (1:33) mở đầu với sự kính lễ Mạn Thù Thất Lợi[3] bằng Phạn ngữ (Sanskit). Điều này cho thấy truyền thống Tây Tạngtruyền thống Phạn ngữ. Phạn ngữ đã trở thành phương tiện ưu thế mà qua đấy giáo huấn Phật Đà hiện diện trong truyền thống Na Lan Đà. Tập quán này cho thấy kiến thức giáo huấn phát xuất từ những nguồn gốc Ấn Độ bằng việc sắp đặt một sự kính lễ bằng Phạn ngữ vào chỗ mở đầu của những luận điển Tây Tạng.

Rồi thì, trong Tạng ngữ, luận điển khởi đầu với sự kính lễ Đức Phật. Ở đây, Tông Khách Ba đã đảnh lễ Đức Phật bằng việc phản chiếu trên những phẩm chất thân, miệng, và tâm ý của Đức Phật. Trong dòng đầu tiên, ngài phản chiếu những phẩm chất của thân Phật,chỉ ra rằng thân thể vật lý của Đức Phật có được như một kết quả của những nguyên nhân. Đây là một ý tưởng quan trọng, ngay đây. Hóa thân của Đức Phật trong hình sắc là kết quả từ những nguyên nhân đặc thù và Tông Khách Ba đã đồng nhất hóa những nguyên nhân này như những phẩm chất tốt đẹp - qua đó ngài muốn nói đến những hành vi đạo đức. Ngay cả việc đạt đến Quả Phật cũng là kết quả của việc gì đấy; nó sinh khởi từ những nguyên nhân và những điều kiện (nhân duyên). Quả Phật không phải sinh ra bất chợt không từ nơi nào, nó cũng không phải là một thể trạng thường hằng vĩnh cữu sẳn có. Trong một ý nghĩa nào đó, Tông Khách Ba đang lập lại lời của Trần Na thể hiện trong mở đầu của kệ tụng Nhận Thức Luận (Compendium of valid Cognition), ở đấy, trong việc nhận dạng Đức Phật như một nhân vật xác thực, ngài nói rằng Đức Phật đã trở thành một con người như vậy[4]. Bình luận về điều này Pháp Xứng nói rằng nhằm để phủ nhận ý kiếnĐức Phậtsẳn có, Trần Na cố ý sử dụng thuật ngữ "trở thành" (become)[5]. Đức Phật qua một số tiến trình, đã trở thành một con người xác thực đáng tin cậy.

Tông Khách Ba nói về thân Phật như được phát sinh từ một loạt vô số thứ lớp nguyên nhân. Những nguyên nhân này được liệt kê trong những tài liệu khác nhau, đặc biệt trong nghiên cứu của truyền thống Tuệ Trí Hoàn Thiện (bát nhã ba la mật) nhưng chúng cũng được đề cập rõ ràng trong Tràng Hoa Quý Báu[6] (Bảo Hành Vương Chính Luận) của Long Thọ. Tông Khách Ba nhấn mạnh rằng ngay cả Đức Phật là bậc chúng ta tôn kính, Đấng Thế Tôn, trước đấy cũng là một người bình thường trên con đường trở thành một Đức Phật. Đã có một thời, Đức Phật cũng như chúng ta. Bằng việc tích tập tất cả những nhân duyên liên hệ, ngài đã tiến hóa thành một bậc Giác Ngộ hoàn toàn.

Để thông hiểu trọn vẹn ý nghĩa trọng đại của dòng đầu tiên này - rằng thân Phật được sinh ra từ một loạt vô số thứ lớp nguyên nhân tuyệt vời - chúng ta phải thấu hiểu những mối quan hệ giữa Bốn Chân Lý Cao Quý[7].Và nhằm để thông hiểu một cách hoàn toàn sự trình bày Bốn Chân Lý Cao Quý, quý vị phải phát triển một sự thấu hiểu giáo huấn về hai chân lý (nhị đế), chân lý tương đối (thế đế) và chân lý tuyệt đối (chân đế)[8]. Đặc biệt, thật quan trọng đối với quý vị để thấu hiểu vấn đề hai chân lý có cùng bản chất tự nhiên nhưng đặc tính khác nhau. Chúng tôi sẽ giải thích nhiều hơn khi chúng ta thảo luận về những sự thực tậpliên quan đến hành giảnăng lực vừa, bậc trung[9]. Ẩn chứa trong dòng này về vấn đề những phẩm chất của Đức Phật được sinh ra từ một loạt vô số thứ lớp nguyên nhân tuyệt vời là nguyên tắc quan trọng của duyên sinh trong dạng thức của nhân và quả.

Tông Khách Ba viết rằng lời nói của Đức Phật đáp ứng những hy vọng và ngưỡng vọng của vô số chúng sanh, vô tận hàm linh. "Những hy vọng" của vô số chúng sanh muốn nói đến lợi ích của chúng sanh. Lợi ích của chúng sanh bao gồm những lợi lạc tức thời và tạm thời cũng như những lợi ích tuyệt đối lâu dài. Để có thể hoàn thành lợi ích của chúng sanh trong bất cứ ý nghĩa nào, Đức Phật cần một sự thông hiểu sâu xa về những nhu cầu này là gì và vấn đề gặp gở chúng sanh một cách hiệu quả nhất như thế nào. Vì vậy, phẩm chất Giác Ngộ về lời nói của Đức Phậtnăng lực của nó để đáp ứng những nguyện vọng của chúng sanh.

Trong một số kinh luận chúng ta thấy việc nhắc đến những phẩm chất của Đức Phật trong dạng thức bản chất lạ thường của những phẩm chất ấy; có những phẩm chất diệu kỳ kết hợp với thân thể, lời nói và tâm ý của Đức Phật. Nhiều kinh luận nhận diện những phẩm chất diệu kỳ của thân thể vật lý Đức Phật, phẩm chất diệu kỳ của tâm ý Đức Phật là nó có thể nhận ra tất cả mọi sự kiện. Lời nói của Đức Phật là diệu kỳ trong việc cung ứng những hướng dẫn giúp ích tất cả chúng sanh. Trong ba thứ này, những phẩm chất của Đức Phật về lời nói luôn luôn được xem là quan trọng nhất.

Trong tác phẩm Ca Ngợi Đức Phật Vì Đã Dạy Lý Duyên Sanh, Tông Khách Ba viết - Bạch Đức Thế Tôn - trong tất cả những hành vi Giác Ngộ của Ngài, điều quan trọng nhất là lời nói của Ngài và đấy, trong ấy, lời dạy về giáo lý duyên sanh là quan trọng nhất[10]. Cũng thế, trong những tác phẩm của Long Thọ, những lời mở đầu kính lễ đến Đức Phật thường liên hệ một cách đặc biệt ca tụng việc Đức Phật đã dạy lý duyên sanh[11].

Chúng ta chú ý rằng Tông Khách Ba đã chứng minh những phẩm chất của thân Phật một cách chính yếu từ quan điểm những nguyên nhân của nó. Rồi thì khi nhận diện những phẩm chất lời nói của Đức Phật, thì ngài làm việc này chủ yếu trong dạng thức những kết quả của nó. Và khi nhận dạng những phẩm chất tâm ý của Đức Phật, ngài đã chứng minh phẩm chất Giác Ngộ của tâm ý Đức Phật khi năng lực của nó được thâm nhập trọn vẹn trong việc thân chứng chân lý tuyệt đối trong khi cùng lúc cũng nhận thức tức thời thế giới đa dạng (của chân lý tương đối). Tâm Giác Ngộ này của Đức Phật là minh chứng thật sự của Quả Phật. Cho nên ngài đã ca tụng tâm Phật từ quan điểm tồn tại tính bản nhiên của Quả Phật.

Sau khi đảnh lễ Đức Phật như vị hiền nhân vĩ đại của dòng Thích Ca, trong những dòng kệ tiếp theo Tông Khách Ba đã kính lễ Mạn Thù Thất LợiDi Lặc[12] và rồi thì đến Long ThọVô Trước, hai bậc khai phá tiên phong của Đại Thừa Phật Giáo. Sau đó ngài cũng kĩnh lễ đến Atisa Dipamkara, trong ý nghĩa ngài là vị khai sáng dòng truyền thừa giáo huấn Những Giai Tầng Của Con Đường Giác Ngộ, cũng như những đại đạo sư thủ hộ của dòng này.

 

Sự Thực Hành Hợp Nhất

Tông Khách Ba (1:33) sau đó giải thích động cơ chính yếu của ngài cho việc sáng tác Đại Luận. Điều này vô cùng quan trọng. Ngài nói rằng ngài đã thấy nhiều người tận hiến sâu xa cho việc thiền tập, nhưng đang thiếu kém trong việc học hỏi. Do bởi sự khiếm khuyết này, họ chỉ tập trung trên chỉ một hay hai khía cạnh của một sự thực tập đặc thù. Chỉ với một sự hiểu biết tối thiểu đối với toàn bộ con đường tu tập của Đạo Phật, thế nên họ không thể thực hành trong một thể hợp nhất tất cả những yếu tố then chốt của giáo huấn thiết yếu.

Những ai được học hỏi đôi khi có thể rất giỏi giang trong việc bổ sung hợp nhất các giáo huấn vào trong sự thực tập cá nhân của họ. Nhưng trong những trường hợp khác, những người đã học hỏi chuyên sâu trong những truyền thống luận điển Phật Giáo lại dường như không có nhiều kinh nghiệm thật sự. Họ có thể có rất ít lợi lạc từ tất cả những việc học hỏi giáo pháp của họ. Ngày nay, chúng ta thấy các trường hợp khi mà việc học hỏi nghiên cứu dường như phục vụ xa hơn cho việc củng cố bản ngã của các học giả, tạo ra tính tự phụ, ganh tỵ, và những rắc rối khác. Ngay cả khi những phẩm chất tiêu cực này không hiện hữu, một số vị thầy thế nào đó dường như lạc lối khi đi đến việc áp dụng những gì họ biết vào trong việc thực tập. Đối diện với những không gian mênh mang của giáo lý, sự tiếp cận của họ bị phân tán. Những học giả như vậy thế nào đấy không thể kết hợp các giáo huấn với nhau trong một cấu trúc hợp nhất hữu dụng cho việc thực tập thật sự.

Xa hơn nữa, Tông Khách Ba nói rằng nhiều cá nhân biểu hiện tính cục bộ trong sự nghiên cứu và trong thực hành của họ. Thí dụ, ở Tây Tạng, khi người nào đấy ngẫu nhiên ham thích trong con đường thực hành của Kinh thừa hiển giáo, thế thì họ có khuynh hướng phớt lờ những giáo huấn Mật tông Kim Cương thừa[13]. Nếu ai đấy là một hành giả Kim Cương thừa, rồi thì họ có khuynh hướng lãng quên giáo huấn Kinh thừa Hiển giáo. Nếu ai đấy nhiệt tình với nghiên cứu tri thức luận thì họ có thể chỉ chuyên môn về thứ ấy. Đối với những người khác, có thể là A Tỳ Đạt Ma hay giới luật.

Cho nên có những hành giả thiền tập không được học hỏi, những học giả nghiên cứu rộng rãi nhưng không thể áp dụng sự học tập để thực hành, và cũng có nhiều người khác phiến diện nhiều cách trong việc học hỏithực tập của họ. Tông Khách Ba nói rằng tất cả ba hạng hành giả trên không thể thực tập giáo pháp trong một cách làm vui lòng những bậc trí tuệ. Ngài muốn nói rằng không ai trong ba loại trên có thể thực tập trên căn bản của một sự tiếp cận hợp nhất toàn diện tất cả những yếu tố cốt lõi của con đường Phật Giáo.

Những gì Atisa cho chúng ta trong Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ chỉ là một cách hợp nhất những yếu tố chìa khóa của giáo pháp như vậy cho một hành giả, một người ngồi trên tọa cụ. Cho nên Tông Khách Ba nói rằng lòng ngài vô cùng hoan hỉ trong việc viết ra một sự giải thích rộng rãi Ngọn Đèn của Atisa bởi vì nó cống hiến một cung cách thực tập sẽ làm vui lòng những bậc đại trí. Nó đem đến tất cả những yếu tố thiết yếu của giáo huấn vào trong một cơ cấu mà trong ấy hành giả có thể thực hành tất cả trong những giai tầng (tu tập).

Sự hợp nhất này rất giống với những gì mà Thánh Thiên trình bày trong 400 Kệ Tụng Trung Đạo, ở đấy chúng ta cũng có một chuỗi các giai tầng. Ở trình độ thứ nhất, quý vị phải tránh những hành vi phi đạo đức, quý vị phải chấm dứt việc chấp trước vào tất cả các quan điểm. Người nào thật sự thông hiểu sự tiếp cận này thì thật sự thông tuệ[14].

 

Lắng Nghe Tốt

Trong kệ chào đón sau cùng, Tông Khách Ba (1:34) kêu gọi độc giả, những người có thể lợi lạc từ sự tiếp cận này, yêu cầu họ lắng nghe tốt. Những độc giả như vậy sẽ là những người với tâm thức không bị những suy tư thành kiến che mờ, năng lực tinh thần để phân biệt đúng với sai, và quan tâm trong việc tìm ra ý nghĩa thật sự trong thuận lợi và cơ hội của đời sống con người của họ. Ngài yêu cầu những ai trong chúng ta với may mắn như vậy, "Hãy vui lòng lắng nghe đến những gì tôi nói với sự nhất tâm."

Xét cho cùng, điều này tương tự ấn tượng với 400 Kệ Tụng của Thánh Thiên, trong ấy nói rằng một hành giả của giáo pháp, người lắng nghe giáo huấn cần ba phẩm chất: khách quan, thông minh quả quyết, và một sự quan tâm thật sự đến những gì được giảng dạy[15].

 

Atisa Và Những Giai Tầng Của Truyền Thống Con Đường (Tiệm Tiến)

Tông Khách Ba (1:35:43) sau đó giải thích tính vĩ đại của tác giả mà ngài muốn nói đến là đạo sư Ấn Độ Atisa. Giáo huấn của Atisa xuất phát từ hai dòng truyền thừa chính. Một bắt nguồn từ Long Thọ và gắn liền một cách chính yếu từ giáo huấn của Đức Phật trên quan điểm triết lý về tánh không, nhấn mạnh duyên sinh và mối liên hệ của nó với chân lý tuyệt đối. Thứ đến là dòng truyền thừa Di Lặc, truyền qua Vô Trước đến những đạo sư kế thừa. Ở đây tập trung chủ yếu khía cạnh phương pháp của con đường Đại Thừa, một cách đặc biệt những thực tập liên hệ đến việc trau dồi lòng từ ái, bi mẫn, và tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề (bodhicitta). Hai dòng truyền thừa này thật sự hội tụ trong Atisa.

Tây Tạng, giáo huấn của Atisa phát triển thành ba dòng chính. Một là dòng "Kadam đại điển" của Potowa[16], thấu hiểu những hướng dẫn của Atisa trên căn bản của việc học tập và thực hành sáu tài liệu chính của Ấn Độ. Hai trong số ấy là Những Câu Chuyện Tiền Thân (Jataka Tales), chuyện những kiếp sống quá khứ của Đức Phật, và Sưu Tập Cách Ngôn[17]. Hai bộ sách này được xem như căn bản cho việc trau dồi và làm nổi bật sự hy hiến của hành giả đến Đức Phật. Sau đó Những Trình Độ Bồ Tát của Vô TrướcĐại Thừa Trang Nghiêm Kinh của Di Lặc được xem như chính yếu trong dạng thức của những giáo huấn về những thể trạng thiền tập; chúng đối diện một cách rộng rãi với những trình độ đa dạng và những con đường trong sự thực tập Đại Thừa[18]. Và hai tài liệu sau là Toát Yếu Những Kiến Thức Truyền TraoHướng Dẫn Lối sống Bồ tát của Shantideva, trình bày một cách chính yếu những sự thực tập Bồ tát đạo.

Dòng truyền thừa thứ hai - dòng "Kadam Những Giai Tầng Của Con Đường" - tiến triển trong những đệ tử của Atisa đặt căn bản của sự thực tập trên những tài liệu trình bày những giai tầng của con đường tiệm tiến (Lamrim) hay những giai tầng của giáo huấn (denrim). Và cũng có sự tiến triển thành dòng truyền thừa thứ ba, "Kamdam, Những Hướng Dẫn Cá Nhân", nhấn mạnh những tài liệu hướng dẫn cá nhân ngắn gọn thiết lập cho những hoàn cảnh đặc thù.

Khi quý vị tiếp cận những giai tầng của giáo huấn con đường tiệm tiến, kể cả Đại Luận của Tông Khách Ba, quý vị có thể thấy tất cả ba dòng truyền thừa này. Tông Khách Ba tiếp nhận giáo huấn của cả ba. Hơn thế nữa, nếu quý vị nhìn vào Đại Luận, hầu hết những tài liệu gốc của nó thật sự ở trong văn hệ Tuệ Trí Hoàn Thiện. Trong thực tế, đệ tử của Tông Khách Ba là Gyeltsap đã viết một quyển sách về văn hệ Tuệ Trí Hoàn Thiện mà trong ấy đôi khi ông trích dẫn Đại Luận, vì thế cho thấy sự liên hệ gần gũi của ông [19].

Quý vị chính yếu đang đi theo sự tiếp cận của dòng truyền thừa "Đại Điển Lamrim" nếu quý vị học tập Đại Luận trên căn bản của bảy tài liệu phụ của Tông Khách Ba: Đại Dương Lý Trí, Tư Tưởng Sáng Tỏ, Căn Bản Hùng Biện, bộ phận tuệ giác của Đại Luận, Tiểu Luận,Tràng Hoa Vàng Hùng Biện,Giảng Luận Trang Nghiêm Tâm của Gyelstap. Hay quý vị có thể thay vì theo dõi dòng "Kadam Những Giai Tầng Của Con Đường" thì tập trung chính yếu trong Đại Luận và Tiểu Luận của Tông Khách Ba. Tuy thế, Tông Khách Ba đã nói rằng, vì hiếm có người nào biết áp dụng vào thực hành tất cả những sự giải thích, vì thế nên làm ra những tập toát yếu. Do vậy những môn đồ của ngài đã sáng tác nhiều luận điển hướng dẫn trên những giai tầng của con đường tiệm tiến, cả tóm tắtchi tiết. Có sáu luận điển ngắn trong sưu tập nổi tiếng của tám hướng dẫn lớn đối với những giai tầng của con đường tiệm tiến, nhưng cũng có nhiều tài liệu khác loại này[20]. Nếu sự tiếp cận của quý vị theo những luận điển này, thế thì quý vị đang đi theo dòng truyền thừa "những sự hướng dẫn cá nhân của con đường tiệm tiến lamrim". Cho nên trong phạm vi nghiên cứuthực hành những giai tầng của con đường tiệm tiến, thì quý vị có thể đi theo ba dòng truyền thừa khác nhau, xuất phát từ những môn đồ của Atisa.

 

Atisa Và Bốn Tông Phái Phật Giáo Tây Tạng

Tiếp theo Atisa đến Tây Tạngsáng tác Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ, mỗi một tông phái trong bốn tông phái chính của Phật Giáo Tây Tạng tiếp nhận mô thức và cấu trúc của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến. Thí dụ trong truyền thống Nyingma, tác phẩm Tâm Thanh Thản của Longchenpa trình bày con đường trong một cách theo cấu trúc căn bản của Atisa[21]. Cùng giống như thế đối với Sakya Pandita và tác phẩm Làm Sáng Tỏ Mục Đích của Đức Phật, có thể được xem như một sự hợp nhất của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến (lamrim) và giáo huấn rèn luyện tâm (lojong). Tương tự thế trong truyền thống Kagyu, Gampopa và tác phẩm Trân Bảo Trang Nghiêm Giải Thoát trình bày cấu trúc căn bản của con đường tu tập trong một mô thức giống như dàn bài của Atisa[22]. Đôi khi thứ lớp những lộ trình hơi khác nhau được thể hiện, nhưng một cách căn bản trong tất cả những truyền thống này về những giai tầng của con đường tiệm tiến là rất giống nhau. Thí dụ, Trân Bảo Trang Nghiêm Giải Thoát nói về vấn đề tâm thức hành giả xa tránh bốn điều. Nếu quý vị nhìn vào bốn điều xa tránh này của tâm thức, chúng lập lại giáo huấn trong những giai tầng của truyền thống con đường tiệm tiến.

 

Hai Nguyện Vọng

Trong một ý nghĩa, giáo huấn của Atisa xuất phát từ một điểm mà Long Thọ đã thực hiện trong Tràng Hoa Quý Báu của ngài[23], Long Thọ giải thích rằng nếu quý vị thẩm tra tất cả giáo huấn của Đức Phật, thì có thể được phân loại thành hai loại nguyện vọng: (1) nguyện vọng đạt được một sự tái sinh may mắn trong một thế giới cao hơn và (2) nguyện vọng đạt đến sự giải thoát cứu kính hay, như Long Thọ gọi nó là "từ ái minh bạch". Tất cả những giáo huấn của Đức Phật, trong cách này hay cách khác, liên hệ đến việc hoàn thành hai nguyện vọng này.

Chúng ta làm thế nào để hoàn thành nguyện vọng đạt được sự tái sinh tốt đẹp hơn? Điều này được hoàn tất qua việc tiếp thu một cung cách sống không gây tổn hại, bất bạo động. Trái tim của sự thực hành ấy là sống một đời sống trên căn bản của niềm tinquả quyết trong luật nhân quả. Cho nên nó đòi hỏi sự trau dồi niềm tin rằng duyên sinh hoạt động theo chiều hướng mà các hành vi của chúng ta có những tác động của nghiệp báo. Sống một đời sống phù hợp với niềm tin ấy là phương pháp chính mà qua đó hành giả tìm cầu để hoàn tất nguyện vọng đạt được một sự tái sinh may mắn.

Nguyện vọng kia là tìm cầu sự giải thoát tối hậu hay Giác Ngộ, và ở đây phương pháp chính là trau dồi một sự thấu hiểu về tính bản nhiên cứu kính của thực tại. Chúng ta hiểu tính bản nhiên cứu kính của thực tại một cách chính yếu qua lời dạy của Đức Phật rằng duyên sinh bao hàm tính không. Hành giả cần trau dồi tuệ trí. Vì vậy, những nhân tố chìa khóa mà hành giả cần trau dồi trong sự thực hành Đạo Phật - niềm tin trong nghiệp quảtuệ trí thông hiểu tính không - cả hai xuất phát từ sự thông hiểuduyên sinh.

Đạt đến sự giải thoát có thể ở trong hai hình thức. Một là sự giải thoát cá nhân, giải thoát khỏi sự tồn tại bất giác. Nhưng cũng có việc đạt đến Quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Trước đây chúng ta đã thấy rằng phẩm chất chính của lời nói của Đức Phậtnăng lực của nó đáp ứng nguyện vọng của tất cả chúng sinh. Đây là khuynh hướng của hành giả Đại Thừa, một người được động viên để đem đến lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lợi ích của tất cả chúng sinhmục tiêuhành giả Đại Thừa tìm cầu để đạt đến Quả Phật. Bởi vì động cơ ấy, hành giả cần hoàn tất con đường tuệ trí với tâm bồ đề - bodhicitta, tâm linh của Giác Ngộ. Hai thứ này với nhau sẽ cho phép hành giả đi đến sự thực chứng nguyện vọng sau cùng.

Trong sáu tác phẩm mà môn nhân của Atisa sử dụng để thực tập Những Giai Tầng Của Con Đường Tiệm Tiến trong dòng truyền thừa đại điển của Potowa, Những Câu Chuyện Tiền Thân Sưu Tập Cách Ngôn một cách chính yếuliên quan đến niềm tin trong nghiệp quả. Những Trình Độ Bồ Tát của Vô TrướcĐại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận của Di Lặc có thể được thấu hiểu như liên hệ đến động cơ bi mẫn của hành giả Đại Thừa, và Toát Yếu Kiến ThứcHướng Dẫn Lối sống Bồ tát của Tịch Thiên có thể được thấu hiểu như liên quan với quan điểm tính không. Tôi thấy nhận thức này trong sáu luận điển là lợi lạc nhất.

 

Không Có Mâu Thuẩn Trong Giáo Huấn Của Đức Phật

Những gì chúng ta đã thảo luận cho đến bây giờ đã cho chúng ta một ý thức về sự sâu rộng của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến bằng việc nêu bật tính xác thật về căn nguyên và nguồn gốc của nó. Một cách khác để gây niềm tin trong giáo huấngiải thích về tính rộng lớn của chính nó. Một trong những lý dogiáo huấn của Atisa là to lớn là vì nó cho phép hành giả nhận ra rằng không có sự mâu thuẩn trong tất cả giáo huấn của Đức Phật (1:46.49).

Lời nói của Đức Phật có khả năng đáp ứng những nguyện vọng khác nhau của vô lượng chúng sanh. Vì thế, những chúng sanh được cứu giúp bằng lời nói của Đức Phật không chỉ là vô hạn trong số lượng. Chúng sanh cũng vô lượng trong sự đa dạng theo thiên hướng tinh thần như những cá thể. Để điều tiết thích nghi sự đa dạng của thiên hướng tinh thầntrình độ tinh thần trong thính chúng của ngài, Đức Phật đã ban bố nhiều giáo huấn khác biệt nhau. Tùy thuộc vào trình độ nguyện vọng, mỗi người có thể phân biệt những thứ nào là Đại Thừa từ những Thừa Nền Tảng. Cũng thế, chúng ta có thể phân biệt bốn trường phái Phật Giáo cổ điểnẤn Độ[24] tùy thuộc vào trình độ thấu hiểu giáo huấn tuệ trí. Nếu quý vị chỉ đơn thuần nhìn vào những giáo huấn khác biệt như những kinh luận cá biệt, thế thì trên bề mặt chúng dường như mâu thuẩn với nhau. Tuy nhiên, giáo huấn những giai tầng tiệm tiến của Atisa cho phép chúng ta thấu hiểu sự khác biệt này không chỉ như một sự điều tiết thích nghi đến những cá thể khác nhau, mà cũng hữu dụng đối với từng hành giả riêng biệt khi người ấy tiến triển đến những trình độ khác nhau của thực chứng.

Thí dụ, trong những giáo huấn về tuệ trí có những trình độ vi tế khác nhau trong việc giải thích về vô ngã. Nếu chúng ta liên hệ những giáo huấn này với thể trạng tinh thần của chính chúng ta, như chúng ta nhận thức thế giới như thế nào, rồi thì chúng ta có thể thấy rằng mỗi thứ trong chúng có thể tác động một cách cao độ trong những hoàn cảnh đặc thù. Khi chúng ta quán chiếu tâm thức chúng taxem xét vấn đề chúng ta tưởng tượng tính chất của chính chúng ta như thế nào, thì chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta thường thấy chính chúng ta như sở hữu một loại thực tại nào đó nhất thể, vĩnh cửu, và tự trị - điều gì đấy bên trong mà chúng ta gọi là "tự ngã" hay "linh hồn". Chúng ta bám víu, chấp chặc vào thứ này. Giáo huấn của Đức Phật phủ nhận một tự ngã như vậy rồi thì lập tức giúp chúng ta giải quyết loại chấp trước ấy một cách thích hợp.

Giống như thế, khi chúng ta thẩm tra vấn đề chúng ta liên hệ đến thế giới bên ngoài như thế nào, thì chúng ta nhận ra rằng chúng ta hành động như thể là thế giới vật lý bên ngoài kia có một loại thực thể nào đấy của tự nó. Dường như nó sở hữu một thực thể riêng biệt hoàn toàn độc lập với nhận thức của chúng ta. Trong trường hợp này, giáo lý Duy Thức - phủ nhận một thế giới khách quan bên ngoài - giúp chúng ta giải quyết loại chấp trước ấy.

Do vậy, nhiều giáo lý dường như mâu thuẩn trên bề mặt nhưng hợp lý trong mối quan hệ đến nhu cầu của một hành giả đang tiến hành trong việc thực chứngđối phó với một loạt những vọng tưởng tinh thần khác nhau. Giáo huấn của Atisa về những giai tầng của con đương tiệm tiến chỉ chúng ta rằng tất cả những giáo lý của Đức Phật là hữu dụng đến từng cá thể một, mà không có một sự mâu thuẩn nào.

 

Tiếp Nhận Tất Cả Những Giáo Huấn Như Những Sự Hướng Dẫn Cá Nhân

Tông Khách Ba (1:50-53) giải thích rằng lợi ích khác nữa của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến là nó cho phép chúng ta thấu hiểu tất cả những giáo huấn của Đức Phật như những sự hướng dẫn cá nhân. Một số người có nhận thức rằng trong giáo lý Đạo Phật có hai loại căn bản khác nhau: (1) một loại thuộc triết học kinh viện thật sự chỉ liên hệ cho việc mở rộng tri thức của chúng ta và (2) những giáo lý khác thì liên hệ với sự thực hành cá nhân. Tông Khách Ba xem sự phân đôi này là sai lầmvô ích.

Nếu chúng ta chấp nhận sự tiếp cận của Atisa, thế thì chúng ta thấy rằng tất cả những giáo huấn của nhà Phật liên hệ trực tiếp đến sự thực hành cá nhân của chúng ta. Tất cả chúng là sự hướng dẫn cá nhân bởi vì không có điều gì trong giáo lý của Đức Phật là không liên hệ, trong cách này hay cách khác, để rèn luyệnthuần hóa tâm thức và trái tim của chúng ta.

 

Khuynh Hướng Cứu Kính Của Giáo Lý Đạo Phật

Một lợi ích khác của sự tiếp cận của con đường tiệm tiến là nó cho phép chúng ta thấu hiểu khuynh hướng cứu kính của giáo lý nhà Phật (1:53). Khuynh hướng cứu kính của giáo huấn là cho chúng ta phương tiện để hoàn thành nguyện vọng của chúng ta để đạt đến sự tái sinh may mắn và để đạt được sự giải thoát cuối cùng. Giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến cho phép chúng ta thấy tất cả những giáo lý của Đức Phật đều góp phần, cách này hay cách khác, đến việc hoàn thành hai nguyện vọng này.

 

Tránh Sai Lầm Trong Việc Phủ Nhận Giáo Lý Đạo Phật

Tông Khách Ba (1:53-54) đã khám phá ra tính rộng lớn cuối cùng của sự tiếp cận của con đường tiệm tiến như sự ngăn ngừa sai lầm nghiêm trọng của việc phủ nhận giáo huấn của Đức Phật, phủ nhận giáo pháp. Ở đây Tông Khách Ba trích dẫn nhiều kinh luận, kể cả những Kinh Tuệ Trí Hoàn Thiện (bát nhã ba la mật), nơi Đức Phật nói rằng một hành giả phải học hỏi, thấu hiểu, và thật sự thực hành tất cả mọi khía cạnh của con đường tu tập. Nếu chúng ta thật sự khao khát giúp đở hàng tỉ chúng sanh với những xu hướng tinh thần khác nhau, thế thì chúng ta phải thông hiểuthực tập nhiều giáo huấn và những sự tiếp cận khác nhau. Đây là những gì chúng ta chuẩn bị .

Về phương diện lịch sử, có một truyền thống trong những đạo sư Tây Tạnghọc hỏi cũng như thực tập tất cả mọi dòng truyền thừa - Sakya, Kagyu, Geluk, Nyingma - cũng như Jonang[25]. Đây là một kiểu mẫu tuyệt vời. Chúng ta nên tiếp nhận một sự tiếp cận không phân phái, không chỉ học hỏi tất cả mọi dòng truyền thừa nhưng cũng đem những giáo lý này vào thực tập.

 

Câu Hỏi Về Shugden

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, tôi cảm thấy bối rối khi thấy và nghe những môn hạ Shugden phản đối bên ngoài tòa nhà đây[26]. Tôi phải hiểu vấn đề này như thế nào? Xin hãy trình bày về vấn đề này, khi nhiều người đã hiểu sai sự việc.

ĐÁP: Chúng tôi đã có rắc rối này trong 370 năm. Nó đã bắt đầu từ thời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5. Và từ năm 1951 cho đến những thập niên 1970, chính tôi cũng là người thờ phụng linh thức này. Tôi đã là một trong những hành giả ấy!

Một trong những lý do mà tôi đã từ chối việc thờ phụng Shugden vì rằng nổ lực tối đa của tôi trực tiếp hướng đến việc thúc đẩy không phân phái - một cách đặc biệt trong Phật Giáo Tây Tạng. Tôi luôn luôn thúc đẩy mọi người tiếp nhận giáo huấn từ những đạo sư của các truyền thống khác nhau. Điều này giống như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, và nhiều đại lạt ma khác, những vị đã tiếp nhận các giáo huấn trong nhiều truyền thống. Vì từ cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, đến hôm nay, tôi đã từng thực tập điều này.

Một đạo sư Nyingma, Kunu Lama Rinpoche, khởi đầu đã dạy tôi những luận điển của Tịch Thiên. Vị lạt ma này không có tính bè phái, đã tiếp nhận vô số giáo huấn từ những truyền thống khác nhau. Say đấy, tôi muốn tiếp nhận từ vị đại lạt ma này một giáo lý nào đó khác, với truyền thống Nyingma. Tôi đã hỏi vị giáo thọ của tôi, Ling Rinpoche, cho biết rằng tôi đã tiếp nhận một số giáo lý từ vị lạt ma này, nhưng bây giờ tôi muốn tiếp nhận những giáo huấn trong một luận điển mật tông tantra của Nyingma.

Ling Rinpoche hơi thận trọng về điều này bởi vì Shugden. Ngài không bao giờ thờ phụng linh thức, nhưng ngài cẩn trọng về việc ấy. (Vị giáo thọ khác của tôi, Trijang Rinpoche, rất thân cận với sự thực hành tâm linh này). Lời đồn đại quanh quẩn điều này rằng nếu một lạt ma Geluk tiếp nhận giáo huấn từ truyền thống Nyingma thì Shugden sẽ tiêu diệt người ấy. Ling Rinpoche hơi e ngại cho tôi và ngài thật sự cảnh báo tôi phải cẩn thận. Những người thờ phụng Shugden có một tập quán rằng hành giả phải cực kỳ nghiêm khắc về chính truyền thống Geluk đặc biệt của vị ấy.

Thật sự, tôi nghĩ đây là quan điểm tước đi sự tự do tôn giáo của người khác, ngăn cản họ tiếp nhận những giáo lý khác. Trong thực hành, làm nản lòng quan điểm cướp đi sự tự do lựa chọn thật sự là việc quả quyết tự do tôn giáo. Hai lần phủ định là khẳng định.

Khoảng năm 1970, tôi đã đọc những câu chuyện về cuộc đời của những đại lạt ma, chính yếu từ tông Geluk (Hoàng Mạo Phái). Tôi đã có một ý tưởng rằng nếu Shugden là đáng tin cậy, thế thì hầu hết những đại giáo thọ của các Đạt Lai Lạt Ma phải tiến hành việc thờ phụng Shugden. Hóa ra không phải như thế. Do vậy, tôi đã gia tăng nghi ngờ và càng thẩm tra hơn, chuyện đã trở thành rõ ràng.

Thí dụ, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm đã giải thích rõ ràng vị thế của ngài đối diện với việc thờ phụng linh thức này[27]. Ngài đã giải thích đấy là gì và ngài giải thích những nhân duyên đã làm sinh khởi việc ấy. Ngài đã diễn tả những chức năng tàn phá của linh thức đặc thù ấy. Ngài nói rằng nó đã phát sinh từ động cơ lầm lạc và rằng như một linh thức nó biểu hiện như một kẻ phá hoại lời cam kết. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, chức năng của nó là tổn hại cả giáo thuyết nhà Phật lẫn chúng sanh.

Một khi nhận ra những điều này, trách nhiệm đạo đức của tôi là làm rõ ràng những sự kiện này cho dù quý vị có lắng nghe tôi một cách toàn diện hay không. Từ đầu, tôi đã nói với cả người Tây Tạng và một số người bạn của tôi những gì tôi đã thấu hiểu. Họ tự do để lắng nghe lời khuyên của tôi hay không. Nó như một quyền cá nhân để chấp nhận tôn giáo hay không chấp nhận tôn giáo. Việc chấp nhận tôn giáo này hay tôn giáo nọ hoàn toàn tùy thuộccá nhân.

Sự lựa chọn của tôi là việc thờ phụng Shugden thật sự không phải là việc thực hành Phật Pháp chân chính; nó chỉ đơn thuầnthờ phụng một linh thức phàm tục. Đây là một khía cạnh khác của vấn nạn: theo những gì tôi đã dạy, tôi nghĩ quý vị có thể thấy rằng Phật Giáo Tây Tạng là một sự tương tục truyền thừa thuần khiết của truyền thống Na Lan Đà, là việc dựa vào lý trí chứ không phải niềm tin mù quáng. Thế nên thật đáng buồn rằng những sự thực tập nào đó của Tây Tạng có thể làm cho truyền thống thậm thâmphong phú này trở thành một loại thờ phụng linh thức.

Cả Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đã nghiêm khắc phê phán đối với linh thức này. Vì tôi được xem là tái sinh của các Đức Đạt Lai Lạt Ma thế nên lối sống của tôi phải đi theo các ngài là hợp lý. Người ta có thể nói là nó chứng minh rằng tôi thật sự là một vị tái sinh!

Dường như những người ở ngoài kia (đang biểu tình phản đối) thật sự quá đổi vui thích với việc thờ phụng linh thức này. Tốt thôi, đấy là lối sống của họ; tôi không có gì rắc rối nếu đấy là những gì họ muốn làm. Khi tôi giảng dạy ở Đức Quốc, một số môn hạ Shugden la lối tối thiểu ba đến bốn tiếng đồng hồ. Cuối cùng tôi đã cảm thấy vô cùng quan tâm về vấn đề cổ họng của họ sẽ bị ảnh hưởng do la lối quá nhiều.

 Trích từ quyển "From Here to Enlightenment"

 Ẩn Tâm Lộ ngày 3/6/2014



[1] Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tuyên bố, không có thắc mắc gì Tông Khách Batác giả của Đại Luận nhưng ngài cho rằng tác phẩm này lả giảng giải rộng của quyển ngọn đèn cho con đường Giác Ngộ của Atisa, nên Atisa cũng là tác giả của Đại Luận.

[2] Atisa cũng như Tông Khách Ba phân chia hành giả thành ba năng lực: nhỏ, vừa và lớn. Những hành giả thuộc nhóm nhỏ tu với mục đích có được một sự tái sanh tốt đẹp trong tương lai; nhóm vừa, tìm sự giải thoát khỏi luân hồi cho chính họ; nhóm lớn, là những người tìm cầu Quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

[3] Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi là một vị Bồ táthóa thân tuệ trí của chư Phật

[4] Xem Geshe Wangyal's translation trong The Jewelled Staircase

[5] P 5709

[6] Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thích liên hệ đoạn 212: "Một hóa thân sắc tướng của Đức Phật sinh khởi từ việc tích tập của công đức; hóa thân của sự thật, Này đức Vua từ sự tích tập của tuệ trí."

[7] Bốn Chân Lý Cao Quý bao gồm sự thật về khổ đau, sự thật về nguyên nhân khổ đau, sự thật về việc chấm dứt khổ đau, và sự thật về con đường đi đến chấm dứt khổ đau.

[8] Chân lý tuyệt đối là tính tự nhiên tuyệt đối của mọi sự vật như trống rỗng bản chất tự nhiên bên trong; chân lý quy ước bao gồm tất cả mọi sự vật tồn tại khác.

[9] Chủ đề này được giới thiệu khởi đầu từ chương 5 và chi tiết hơn trong chương 7.

[10] Như có thể thấy trong sự chuyển dịch của Gavin Kilty, Sự Huy Hoàng Của Trăng Mùa Thu (The splendor of an autumn moon)

[11] Như một thí dụ, trong 60 kệ tụng của Long Thọ.

[12] Mạn Thù Thất Lợi thượng thủ của dòng truyền thừa thậm thâm, và Di Lặc thượng thủ của dòng truyền thừa rộng lớn. Điều này có nghĩa các ngài là những vị thầy ưu việt của hành vi tuệ trí và bi mẫn. Di Lặc cũng là một vị Bồ tát sẽ thành Phật kế tiếp trong thế giới chúng ta.

[13] Kim Cương Thừa liên hệ với sự thực tập Mật tông Phật Giáo. Kim Cương Thừa căn cứ và đòi hỏi sự thực tập phổ thông của Đại Thừa phát xuất từ Kinh thừa hiển giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma xem Kim Cương Thừa như một hình thức của Đại Thừa Phật Giáo, với cùng mục tiêu (Giác Ngộ tròn vẹn), và những nguyên tắc (tuệ trí và bi mẫn) nhưng với những kỷ năng nổi bật, đặc biệt với kỷ năng bổn tôn du già (deity yoga) liên hệ đến việc quán tưởng tự thân với niềm tin thật sự như đã là một vị Giác Ngộ tròn vẹn mà hành giả đang tầm cầu trở thành.

[14] Tông Khách Ba đã trích dẫn đoạn này từ 400 Kệ Tụng Trung Đạo của Thánh Thiên của Đại Luận 1:141

[15] Trích dẫn của Tông Khách Ba từ với 400 Kệ Tụng của Thánh Thiên.

[16] Potowa Rinchen-sel (1027-1105) là một trong những đệ tử chính của Dromdonpa (1004-1064) và Dromdonpa là một trong những đệ tử chính và kế thừa Atisa.

[17] Pháp cú Tây Tạng.

[18] Đã được Robert Thurman và những người liên hệ dịch ra tiếng Anh.

[19] Gyeltsap (1362-1432)

[20] 8 luận điển của Tông Khách Ba

[21] Đã từng được Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng dạy

[22] Liên hệ ở đây là (1) tránh bị dính măc với kiếp sống này, (2) tránh không bị dính mắc với kiếp sống tương lai trong cõi luân hồi, (3) tránh không bị dính mắc với niết bàn của cá nhân, và (4) tránh khỏi sự si mê về ý nghĩa đạt đến Quả Phật.

[23] Xem bản dịch của Jeffrey Hopkins

[24] Tỳ Ba Sa Luận Sư, Kinh Lượng Bộ, Duy Thức Tông, và Trung Quán Tông

[25] Jonang liên hệ đến truyền thống được phổ thông hóa bởi Shayrap Gyaltsen (1292-1361)

[26] Shugden là một bổn tôn gây tranh cải phối hợp với dòng Geluk của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Phật Giáo Tây Tạng. Đức Thánh Thiện đã từ chối sự tôn thờ Shugden trong năm 1975, vì ngài cho rằng việc thờ phụng bổn tôn này đưa đến sự phân phái; ngài không xem Shugden như một vị Giác Ngộ, không giống như sự thừa nhận của những người khác.

[27] Theo tự truyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 289)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 286)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng
(Xem: 382)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 753)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 747)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 861)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 832)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1126)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1355)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1147)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2447)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1836)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3535)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1667)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2602)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2373)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2025)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2979)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2070)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2399)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1835)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1726)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2462)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1531)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2832)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1892)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3811)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2142)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1975)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2532)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4507)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1936)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2838)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1662)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2563)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2650)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2043)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3627)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3089)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2013)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2067)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2391)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2083)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1929)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2475)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2146)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2172)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2588)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3664)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2242)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3343)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3019)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5288)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2633)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3916)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5334)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3874)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2793)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2526)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2738)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant