Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Ngài Long Thọ

06 Tháng Mười 201512:53(Xem: 16184)
Tiểu Sử Ngài Long Thọ
Tiểu Sử Ngài Long Thọ


Alexander Berzin

Tháng Hai, 2006   
  Lozang Ngodrub dịch; Chân Thông Tri hiệu đính

www.berzinarchives.com

 
Tiểu Sử Ngài Long Thọ


Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa. Ngài Long Thọ đã trao truyền giáo huấn thậm thâm về tri kiến tánh Không của dòng truyền thừa từ Đức Văn Thù Sư Lợi, trong khi ngài Vô Trước thì trao truyền giáo huấn về pháp hành bồ tát sâu xa của dòng truyền thừa từ Đức Di Lặc.

Long Thọ sanh ra trong một gia đình Bà la môn, có lẽ vào khoảng giữa thế kỷ thứ Nhất hay đầu thế kỷ thứ Nhì sau Công Nguyên, ở miền Nam Ấn Độ, tại Vidarbha, một vương quốc hiện nay nằm trong hai tiểu bang Maharashtra và Andhra Pradesh. Một số Kinh điển đã có lời tiên tri về ngài, chẳng hạn như Kinh Lăng Già (Lan-kar gshegs-pa’i mdo, Phạn ngữ Lankavatara Sutra). Lúc chào đời, một thầy bói tiên đoán rằng ngài chỉ sống được bảy ngày thôi, nhưng nếu cha mẹ ngài cúng dường một trăm vị tăng thì ngài sẽ sống đến bảy tuổi. Vì lo cho mạng sống của con trai, vào năm ngài bảy tuổi, cha mẹ ngài đã gởi ngài đến Đại Học Phật Giáo Na-lan-đà (Nalanda Monastic University) ở miền Bắc Ấn Độ, nơi ngài đã gặp đại sư Saraha. Ngài Saraha nói rằng nếu Long Thọ từ bỏ thế tục và trì tụng mật chú Phật A Di Đà thì ngài sẽ sống lâu. Long Thọ làm theo lời khuyên, rồi gia nhập vào Tu Viện, nhận pháp danh “Shrimanta”.

Tại Na-lan-đà, Long Thọ tu học Mật điểnKinh điển với Ratnamati, một vị hóa thân của Đức Văn Thù Sư Lợi, và với đại sư Saraha, đặc biệt là pháp tu Mật điển Guhyasamaja (dPal gsang-ba ‘dus-pa’i rgyud). Ngoài ra, ngài còn học thuật giả kim (alchemy) với một vị Bà la môn và biết cách biến sắt thành vàng. Nhờ có khả năng này, ngài có thể nuôi chư Tăng Na-lan-đà trong nạn đói. Cuối cùng, ngài trở thành vị trụ trì của Na-lan-đà. Ở đó, ngài đã đuổi tám ngàn vị tăng không giữ gìn giới luật đúng đắn. Ngài cũng đánh bại năm trăm người ngoại đạo trong các cuộc tranh luận.

Hai vị thanh niên là hóa thân của các con trai của vua Thiên Long (naga king), đã đến Na-lan-đà. Thân họ phát ra mùi gỗ đàn hương tự nhiên. Long Thọ hỏi thăm sự tình và họ thú thật về thân thế của mình. Ngài bèn hỏi xin mùi gỗ đàn hương cho một pho tượng Tara và nhờ các Thiên Long giúp ngài xây dựng các ngôi chùa. Họ trở về cõi Thiên Long và hỏi ý kiến vua cha. Vua Thiên Long nói rằng ông có thể giúp ngài Long Thọ, với điều kiện ngài chịu đến long cung dưới biển để dạy cho họ. Long Thọ đồng ý, mang theo nhiều phẩm vật cúng dường và giảng dạy các Thiên Long.

Long Thọ biết các Thiên LongKinh Thiên Bách Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa (Shes-rab-kyi pha-rol-tu phyin-pa stong-pa brgya-pa, Phạn ngữ Shatasahasrika-prajnaparamita Sutra) và đã xin thỉnh một bổn. Khi Đức Phật giảng về Bát nhã Ba la mật (Trí tuệ Ba la mật), các Thiên Long đã mang một bổn Kinh này về long cung để bảo quản, chư Thiên mang một bổn khác và các Dạ Xoa thần Tài Lộc giữ một bổn khác. Long Thọ thỉnh bổn một trăm ngàn câu kệ, mặc dù các Thiên Long giữ lại hai chương cuối làm tin, để ngài Long Thọ phải trở lại long cung giảng dạy thêm cho họ. Sau đó, hai chương cuối đã được bổ sung thêm, cùng với hai chương cuối của Kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa (Shes-rab-kyi pha-rol-tu phyin-pa brgyad stong-pa, Phạn ngữ Ashtasahasrika-prajnaparamita Sutra). Đây là lý do hai chương cuối của hai bổn duyệt lại giống nhau. Long Thọ còn đem đất sét của cõi Thiên Long về để xây dựng nhiều ngôi chùa và bảo tháp.

Một lần nọ, khi ngài đang thuyết giảng Bát nhã Ba la mật thì sáu vị Thiên Long đã đến và xếp thành hình chiếc dù để che nắng cho ngài. Vì điều này mà hình tượng tiêu biểu của Long Thọ có sáu Thiên Long trên đầu của ngài. Từ sự kiện này, ngài có tên Naga (Thiên Long). Vì khả năng thuyết Pháp của ngài đi thẳng vào trọng điểm, như mũi tên của cung thủ nổi tiếng Arjuna (tên một anh hùng trong Kinh điển Ấn Độ giáo, Bhagavad Gita), nên ngài có tên Arjuna. Do đó, ngài được gọi là “Nagarjuna”.

Sau này, Long Thọ du hành đến Bắc Đảo (Bắc Lục địa) để thuyết pháp. Trên đường đi, ngài gặp mấy đứa trẻ đang nô đùa trên đường phố. Ngài tiên đoán rằng một trong những đứa trẻ này, tên Jetaka, sẽ trở thành một vị vua. Khi ngài từ Bắc Đảo trở lại khu vực này, thằng bé đã lớn lên và trở thành Vua của một vương quốc lớn ở miền Nam Ấn Độ. Long Thọ đã ở lại với nhà vua trong ba năm, giảng dạy cho ông và sống những năm cuối đời ở một nơi khác trong vương quốc của ông, tại Shri Parvata, ngọn núi thiêng nhìn xuống thành phố Nagarjunakonda ngày nay. Long Thọ đã viết Bảo Hành Vương Chính Luận (Rin-chen ‘phreng-ba, Phạn ngữ Ratnavali) cho nhà vua. Đây cũng là nhà vua mà Long Thọ đã viết Bằng Hữu Thư để gởi tặng (bShes-pa’i spring-yig, Phạn ngữ Suhrllekha), đó là Vua Udayibhadra (bDe-spyod bzang-po).

Một số nhà học giả Tây phương xác nhận Vua Udayibhadra là Vua Gautamiputra Shatakarni (trị vì từ 106 – 130 sau Công Nguyên) của triều đại Shatavahana (230 trước Công Nguyên – 199 sau Công Nguyên), ở tiểu bang Andhra Pradesh ngày nay. Một vài học giả thì xác nhận ông là vị vua kế tiếp, Vua Vashishtiputra Pulumayi (130 – 158 sau Công Nguyên). Khó mà nhận diện ra ông một cách chính xác. Những người của triều đại Shatavahana là các nhà bảo trợ cho bảo tháp ở Amaravati, nơi Đức Phật đã giảng dạy Mật điển Thời Luân (The Kalachakra Tantra) lần đầu tiên, và là nơi gần Shri Parvata.

Vua Udayibhadra có một đứa con trai, Kumara Shaktiman, người muốn trở thành vua. Mẹ ông nói rằng ông không thể làm vua cho đến khi nào Long Thọ qua đời, vì Long Thọ và nhà Vua có cùng thọ mạng. Mẹ ông bảo ông đi xin thủ cấp của Long Thọ, và vì là người rất từ bi, chắc chắn ngài sẽ đồng ý. Long Thọ thật sự đã đồng ý, nhưng Kumara không thể chặt đầu của ngài bằng gươm. Long Thọ nói trong một tiền kiếp, ngài đã giết một con kiến trong khi cắt cỏ. Vì nghiệp quả này, chỉ có lá cỏ Kusha mới cắt đứt đầu của ngài. Kumara làm theo lời ngài và Long Thọ qua đời. Máu từ thủ cấp đã lìa khỏi thân ngài trở thành sữa và cái đầu của ngài nói, “Bây giờ, ta sẽ đến Tây Phương Cực Lạc (Sukhavati Pure Land), nhưng ta sẽ nhập vào thân này lần nữa.” Kumara đem chiếc đầu đi thật xa thân thể, nhưng người ta nói mỗi năm, chiếc đầu và thân ngài càng đến gần nhau hơn. Khi chúng sát nhập lại với nhau, ngài Long Thọ sẽ quay trở lại và giảng dạy lần nữa. Tổng cộng, ngài đã sống sáu trăm năm.

Một trong số nhiều bản Kinh luận mà Long Thọ đã viết là Bộ Sưu Tập Lý Luận (Rigs-pa’i tshogs), Bộ Sưu Tập Xưng Tán (bsTod-pa’i tshogs), và Bộ Sưu Tập Giải Thích Mô Phạm (gTam-pa’i tshogs).

Sáu Bộ Sưu Tập Lý Luận (Rigs-tshogs drug) là:

l Trung Quán Luận, (dBu-ma rtsa-ba shes-rab, Phạn ngữ Prajna-nama-mulamadhyamaka-karika)

 

l Bảo Hành Vương Chính Luận (Rin-chen ‘phreng-ba, Phạn ngữ Ratnavali)

 

l Hồi Tranh  Luận (rTsod-pa zlog-pa, Phạn ngữ Vigrahavyavarti)

 

l Thất Thập Tánh Không Luận (sTong-nyid bdun-bcu-pa, Phạn ngữ Shunyatasaptati)

l Kinh Quảng Phá Luận (Zhib-mo rnam-‘thag zhes-bya-ba’i mdo, Phạn ngữ Vaidalya-sutra-nama)

l Lục Thập Tụng Như Ý Luận (Rigs-pa drug-cu-pa, Phạn ngữ Yuktishashtika)

 

Một số tác phẩm trong Bộ Sưu Tập Xưng Tán của Long Thọ là:

l Tán Pháp Giới Tụng (Chos-dbyings bstod-pa, Phạn ngữ Dharmadhatu-stava)

l Tán Chân Đế Tụng (Don-dam-par bstod-pa, Phạn ngữ Paramartha-stava)

l Tán Xuất Thế Gian Tụng (‘ Jig-rten-las ‘das-par bstod-pa, Phạn ngữ Lokatita-stava)

 

Một số tác phẩm trong Bộ Sưu Tập Giải Thích Mô Phạm của Long Thọ là:

l Bồ Đề Tâm Luận (Byang-chub sems-kyi ‘grel-ba, Phạn ngữ Bodhicittavivarana)

l Kinh Tập Yếu (mDo kun-las btus-pa, Phạn ngữ Sutrasamuccaya)

l Bằng Hữu Thư (bShes-pa’i spring-yig, Phạn ngữ Suhrllekha)

 

Một vài luận giải về Mật điển Guhyasamaja cũng do ngài Long Thọ sáng tác gồm có:

l Nghi Quỹ Pindikrta (sGrub-thabs mdor-byas, Phạn ngữ Pindikrta-sadhana)

l Phương Pháp Thiền Quán Giai Đoạn Phát Khởi của Mật Điển Đại Du Già Guhyasamaja, Phối Hợp với Nguyên Văn (rNal-‘byor chen-po’i rgyud dpal gsang-ba ‘dus-pa’i bskyed-pa’i rim-pa’i bsgom-pa’I thabs mdo-dang bsres-pa, Mdo-bsres, Phạn ngữ Shri-guhyasamaja-mahayogatantra-utpattikrama-sadhana-sutra- melapaka

l Pancakrama (Năm Giai Đoạn (Giai Đoạn Viên Mãn)) (Rim-pa lnga-pa, Phạn ngữ Pancakrama)

Vị đệ tử lừng danh nhất của ngài Long ThọThánh Thiên (Aryadeva, ‘ Phags-pa lha), tác giả của Tứ Bách Kệ Tụng Bồ Tát Hạnh Du Già (Byang-chub sems-dpa’i rnal-‘byor spyod-pa bzhi-brgya-pa’i bstan-bcos kyi tshig-le’ur byas-pa, Phạn ngữ Bodhisattvayogacarya-catu:shatakashastra-karika), và một vài luận giải về Mật điển Guhyasamaja.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12592)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29357)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27559)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25762)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 14893)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16128)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14370)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12518)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18796)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43699)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47342)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13564)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14462)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40205)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43243)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14314)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14027)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39518)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13747)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37136)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39873)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13698)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37044)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11657)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22406)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12402)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12461)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 12902)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14681)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12330)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11865)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11829)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12287)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30487)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31711)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35206)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27615)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11345)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31527)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 26853)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 23983)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30717)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 26916)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 27908)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23088)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23365)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21413)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26072)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 12927)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21696)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14015)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37784)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 31922)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28388)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19503)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7181)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant