Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thế Hệ Tăng-già Tây Tạng

26 Tháng Mười 201606:45(Xem: 9412)
Thế Hệ Tăng-già Tây Tạng


1. Sơ truyền

Phật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua Khri-srong- lde-btsan (755-797 Tl), với sự trở lại Tây tạng lần thứ hai của Tịch Hộ (Śāntakṣita, Tạng: Zhi-ba-‘tsho [1]), bấy giờ mới có người bản địa chính thức xuất giathọ giới.

Khri-srong lde-btsan là một trong ba vị Tạng vương được tôn xưng như là ba vị “Vua của Chánh pháp” (dharmarāja, chos-rgyal), vốn là những trụ cột chính cho sự tồn tại và phát triển của Phật giáo tại Tây tạng. [2]

Tây Tạng Vương Thống Ký [3] chép, ông là con trai của Khri-lde gtsug-brtsan và Kim Thành Công chúa, nhưng bị bà Trưởng Phi của Khri-lde gtsug-brtsan là sNa-nam bza’ âm mưu chiếm đoạt làm con. Sau một cuộc trắc nghiệm, tiểu vương tử nhận diện mẹ mình chính là Hán Phi Kim Thành Công chúa. [4]

Cuối đời vua Khri-lde gtsug brtsan (Mes Ag-tshom, 704-755 Tl.), hình như một phái đoàn do sBa Sang-shi và dẫn đầu được gửi sang yết kiến Hoàng đế Trung hoa để thỉnh Kinh sách và Hòa thượng người Hán sang Tây tạng truyền pháp. Trên đường về nước, ngang qua Ích châu, tại đây họ gặp Kim Hòa thượng, [5]người có khả năng phục hổ, và tiên tri. Vị Hòa thượng này dự báo cho phái đoàn biết rằng vua của họ (Khri-lde-gtsug-brtan) đã chết, bọn quyền thần phá hoại Phật pháp; và nếu tiểu vương tử sống sót, ông sẽ quy y PhậtPhật pháp trở lại hưng thịnh. Tiểu vương tử này chính là Tạng vương Khri-srong-lde-btsan. Kim Hòa thượng cũng dự báo rằng sẽ có Bí-sô Śāntarakṣita, Vương tử nước Sha-hor, sẽ đến Tạng hoằng dương Phật pháp. [6]

Kim Hòa thượng nói đây được biết là Vô Tướng thiền sư, người Cao ly, đắc pháp với Thiền sư Phổ Tịch, sau lánh sang ẩn tu ở chùa Tịnh Thiền, Nhật Nam (釰南), truyền pháp cho đệ tử Bảo đường Vô Trụ, tịch năm Bảo ứng thứ nhất (672 Tl). [7] Sứ đoàn Sang-shi gặp Sư ở Ích châu và được báo tin vua của họ đã chết. Khri-lde-gtsug-brtan chết khoảng năm 755 Tl. Sứ đoàn này, gồm 5 người, vậy do Khri-lde-gtsug-brtan gửi đi trước khi chết. Nếu sự kiện này khả tín, họ có thể gặp Kim Hòa thượng trước 755.

Khi họ về nước thì quả như lời thiền sư dự báo. Bấy giờ Khri-srong lde-btsan mới 13 tuổi; [8] quyền thần Ma-zhang khron-pa-skyes và những người bài Phật ra pháp lệnh chế định (khrims bu chung) cấm mọi người học Phật. Sang-shi từ Trung quốc thỉnh về được 1000 quyển Kinh Phật, [9] nhưng do tình hình như vậy nên phải ẩn dấu ở Chos-brag. Tuy vậy, Khri-srong-lde-btsan, như tường thuật bởi Bu-ston, khi đến tuổi trưởng thành, tìm hiểu và biết cha và ông nội là những vị vua sùng thượng Phật pháp, ông bắt đầu nghiên cứu kinh điển. Sang-shi trình vua số Kinh thỉnh được. Vua rất mừng, lập người phiên dịch. Trong số đó có Ananta từ Kashmir sang, và một vị Sư người Hán là Me mGo [10] . Dự định này không thực hiện được vì bị Ma-zhang-grom-pa-skyes cản trở, và trừng phạt Sang-shi. Một số triều thần tin Phật bèn đề nghị đày Sang-shi và gSal snang đi sang Mang yul. [11] gSal snang không ở lại Mang yul, mà đi thẳng sang Ấn-độ, hành lễ chiêm bái tại Bồ-đề tràng. Ông gặp Tịch Hộ (Śāntarakṣita) tại Nepal và thỉnh cầu sang Tạng. Ông báo cáo với Khri-srong lde-btsan, hết sức tán dương tài trí của Tịch Hộ (Śāntarakṣita). Vua bảo hãy tạm ẩn; rồi bí mật lập mưu với Zhang nyam bzang và ‘Gos khri bzang, đánh lừa và chôn sống Ma-zhang trong một ngôi mộ ở sTod lungs.

Khởi thủy, khi vào Tạng, Tịch Hộ hội kiến với Khri-srong lde-btsan tại cung rLung tshugs. Tại đây, trải qua bốn tháng, Tịch Hộ giảng thuyết cho vua và các triều thần về 10 thiện nghiệp, 18 giới, 12 chi duyên khởi, qua một người thông dịch là Ananta. Thế nhưng, ngay lúc đó nạn dịch lại xảy ra và một trận lụt lớn. Những người bài Phật cho là sự hiện diện của Tịch Hộ khiến cho các thần linh nổi giậntrừng phạt. Tịch Hộ phải tạm thời lánh về Nepal. Trước khi đi, Tịch Hộ nói với vua rằng xứ Tây tạng quá nhiều ma quỷ, đề nghị phải thỉnh Padmasambhava mới trấn áp được bọn này. Vua bèn lập phái đoàn sang Ấn nghinh thỉnh Padmasambhava.

Khi đặt chân lên đất Tây tạng, Padmasambhava lần lượt khuất phục các thần linh, ma quỷ bản địa, nhưng cho rằng đây chưa phải là thời cơ Phật pháp được xương minh, do đó từ giã và trở về Ấn, sau 13 năm chinh phục Tây tạng.

Lần này Tịch Hộ quay trở lại Tây tạng, do bởi bọn quỷ thần bản xứ đã bị Padmasambhava khống chế, không còn gây nhiễu hại, việc truyền bá có vẻ thuận duyên. Vị A-xà-lê Bồ-tát (mKhan po Bodhisattva) [12]bắt đầu kiến thiết chùa bSam yas theo quy mô kiến trúc Uddandapuri (Odantapuri), một đại tăng viện ở Bihar được xây dựng bởi vua Gopala, triều đại Pala (750-770 Tl).

Sự kiện quan trọng đáng được nói ở đây là giới đàn truyền giới cụ túc đầu tiên được thiết lập. Phật giáo truyền vào Tây tạng đã hơn trăm năm nhưng chưa có người xuất gia chính thức thọ cụ túc như pháp. Sử gia Bu-ston ghi, vào năm con dê (775 Tl), Tịch Hộ đã thỉnh được 12 bí-sô người Kasmir thuộc bộ phái Hữu bộ sang Tây tạng. Một cuộc sát hạch được tổ chức, và kết có 7 người được chọn cho thọ cụ túc. Nhóm người này được gọi là sad mi mi bdun (bảy người dự tuyển). Cũng theo Bu-ston, có hai truyền thuyết khác nhau về danh hiệu 7 vị giới tử này. Thứ nhất, Hòa thượng truyền giới là Thí Giới (Dānaśīla) [13] và thuyết thứ hai, được phổ biến hơn, Hòa thượng Đường đầu truyền giới chính là Tịch Hộ. Bộ phái truyền thừa chính thứcThuyết nhất thiết hữu bộ, và Luật tạng được áp dụngCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tì-nại-da. Trong hệ này, các Tổ truyền thừa được kể, khởi thủy từ Tôn giả Xá-lị-phất (Sāriputra), cho đến La-hầu-la (Rāhula), [14] rồi đến Long Thọ (Nāgārjuna), Thanh Biện (Bhāvaviveka), Thi-lị-cấp-đa (Śrīgupta), Trí Tạng (Jñnagarbha), và Tịch Hộ (Tĩnh Mệnh). Hình tượng các vị Tổ này được vẽ trên tường Bắc của đại tăng viện bSam yas.

Phả hệ truyền thừa được kể như vậy có thể đối chiếu với truyền thuyết được lưu hành tại Trung hoa ghi nhận bởi Lương Tăng hựu (455-518) trong Xuất Tam tạng ký tập như sau: 1. Đại Ca-diếp (MahāKaśyapa), 2. A-nan (Ānanda), 3. Mạt-điền-địa (Madhyāntika), 4. Xá-na-bà-tư (Śavaṇvāsī), 5. Ưu-ba-quật-đa (Upagupta), … 22. La-hầu-la (Rāhula), … 34. Long Thọ (Nāgārjuna), 35. Đề-bà (Āryadeva)… [15] Theo các phả hệ này, các Đại luận sư Đại thừa như Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, về mặt truyền thừa Luật, thảy đều thuộc Hữu bộ. Họ không phải là những vị xuất thân từ Đại chúng rồi sau đó trở thành Đại thừa như phổ thông được biết.

2. Tranh luận bSam yas (Sam-ye)

Tịch Hộ (Śāntarakṣita) trú tại Tây tạng cho đến năm 783 Tl thì tịch. Trước khi tịch, Tịch Hộ cảnh báo vua Khri-srong lde-btsan rằng trong tương lai Phật pháp sẽ suy tàn do bởi ảnh hưởng người Hán, và khuyên vua nên thỉnh đệ tử của mình là Kamalaśīla (Liên Hoa Giới) sang đây chủ trì giải quyết những xung đột sẽ xảy ra.[16]

Có lẽ lúc bấy giờ Tịch Hộ chứng kiến hoạt động cùa các Thiền sư Hán tại Tây tạng cho nên mới có dự báo này.

Quả thật, các bản văn được phát hiện tại Đôn hoàng cho thấy Thiền tông Trung hoa đã có ảnh hướng khá lớn dưới thời Khri-srong lde-btsan. Tình hình này được ghi nhận bởi Đốn ngộ Đại thừa chánh lý yếu quyết:[17] qua sự trao truyền yếu chỉ Thiền tông của Hòa thượng Ma-ha-diễn, Hoàng hậu Một-lô thị tỏ ngộ, quyết chí xuất gia. Bấy giờ di mẫu của Tán-phổ (đây chỉ Tạng vương Khri-srong lde-btsan) là bà Tất-nang Nam thị, cùng với các phu nhân của các đại thần, sau khi nghe thuyết Đại thừa pháp, thảy đều xuất gia. Đây chẳng khác nào Ba-xà-ba-đề Tỳ-kheo-ni khởi xướng vậy.[18] Trong đây, “Di mẫu Tất-na Nam thị” chính là sNa-nam bZa’, vợ vua Khri-lde gtsug-brtan mà Bu-ston chép là đã có tranh chấp với Kim Thành Công chúa về sự kiện ai là mẹ đích thực của Khri-srong lde-btsan.[19] “Hoàng hậu Một-lô thị”[20] được nói ở đây là Hán âm của Tạng ngữ ‘Bro bza’, bà phi thứ ba của Khri-srong lde-btsan. Bà không có con, sau xuất giapháp hiệu là Byaṅ-chub sgron.[21]

Ma-ha-diễn đến Tây tạng khoảng sau năm 786, theo như ghi chép trong Đốn ngộ Đại chánh lý: “Thần Sa-môn Ma-ha-diễn nói: Vào ngày mà Sa châu đầu hàng, vâng theo ân mệnh của Tán-phổ (Tạng vương), từ xa được kêu gọi về khiến khai thị Thiền pháp, bèn đến Lhasa cùng mọi người tham vấn Thiền pháp…”[22]

Sa châu, tức Cam túc Đôn hoàng ngày nay, theo nhiều khảo cứu, bị Tây tạng chiếm 786 cho đến 846 Tl.[23]Hoặc giả, trong khi quân Tây tạng chiếm cứ Đôn hoàng, bấy giờ Hòa thượng Ma-ha-diễn đang ở đó truyền bá đạo Thiền; Khri-srong lde-btsan vì hâm mộ Phật pháp, nghe danh Sư nên thỉnh về kinh đô Lhasa truyền Thiền. Bởi vì, cũng trong tình hình này, Đàm Khoáng từ Trung nguyên lánh nạn đao binh về Đôn hoàng ẩn tu từ năm 763, sau biến cố này, cũng được mời về Tây tạng, và đã soạn Đại thừa nhị thập nhị vấn, trong đó nêu 22 câu hỏi của Khri-srong lde-btsan và 22 câu giải đáp của Đàm Khoáng.[24]

Xem thế, ngay từ đầu, Khri-srong lde-btsan không có thành kiến với Phật giáo Hán, mặc dầu thường xuyên xung đột quân sự với các vua Đường.[25] Thế nhưng, theo ghi chép của sử gia Phật giáo Tây tạng Bu-ston, số môn đồ của Hòa thượng Ma-ha-diễn ngày càng đông. Những người này theo đoạn kiến, cho rằng “các hoạt động thiện nghiệp bởi thân và ngữ không thể khiến thành Phật.” Nhiều người Tây tạng học theo thuyết này. Trong khi số khác học theo giáo pháp truyền bởi A-xà-lê Bồ-tát (Tịch Hộ). Do đó xảy ra xung đột giữa hai phái. Khi vua tuyên bố hãy thực hành theo giáo pháp truyền bởi A-xà-lê Bồ-tát, phái đốn môn tức sư đồ Ma-ha-diễn nổi giận, hăm dọa sẽ giết bất cứ ai chống đối. Vua lo ngại, do thế, sai Jñānendra sang Ấn nghinh thỉnh Kamalaśīla.[26]

Từ năm 792-794, một cuộc tranh luận đã diễn ra giữa hai hệ tư tưởng xung đột, một bên đại diện Thiền tông Hán là Ma-ha-diễn, và một bên là Kāmalaśīla, truyền nhân của Trung quán-Du già từ Ấn-độ. Nếu giới hạn trong vấn đề xung đột hệ phái tư tưởng, ở đây nên nói là xung đột giữa thiền tông của Ma-ha-diễn với học thuyết Tánh Không của Kamalaśīla; giữa đốn và tiệm. Phản ánh rõ xung đột này có thể thấy trong Bhāvanākrama (sGom pa’i rim pa; Tiệm thứ tu tập) của Liên Hoa giới (Kamalaśīla), trong đó một đoạn Liên Hoa Giới nêu lập trường của Ma-ha-diễn Hòa thượng rồi tiến hành phê phán.

Thực tế, ngay tại bản địa Trung quốc, Thiền tông cũng đã có những mâu thuẫn với các tông phái Phật giáo khác. Với chủ trương “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”, việc nghiên cứu Tam tạng Kinh điển không được xem trọng, mặc dù các Thiền sư cũng hay dẫn Kinh và Luận nhưng đấy chỉ là cách “mượn lời”. Tình huống này hẳn cũng đã xảy ra tại Tây tạng, khi số đông tin theo Thiền phái. Tịch Hộ tất nhiên đã thấy rõ hậu quả tai hại nên có lời cảnh báo Tạng vương.

Kết quả, theo Đốn ngộ Đại thừa chánh lý, “Ma-ha-diễn đại thắng”, ngay trong phần đầu giới thiệu: “Bọn Tiểu thừa (chỉ Liên Hoa Giới) trí cạn, chẳng hiểu gì ý nghĩa bao la, chẳng khác nào như chút ánh sáng đom đóm mà so với ánh sáng mặt trời (chỉ Ma-ha-diễn)” Đoạn sau lại tiếp: bọn Bà-la-môn (chỉ Liên Hoa Giới) nói đến đâu thì lý bị khuất đến đó; xét đến nghĩa thì lời lẽ cạn. Mũi nhọn đã bị bẻ gãy mà còn nghĩ chạy theo dấu xe, bèn mê hoặc đại thần, mưu kết bè đảng, khiến cho Thổ-phồn tăng là Khất-xa-di (Myang sha mi) và Thi-tì-ma-la (rNgegs Byi ma ba), vì pháp quên thân mà tự sát.”[27]

Kết quả, theo Bu-ston, ngược lại. Sư đồ Ma-ha-diễn (sTon mun pa) đuối lý phải dâng tràng hoa cho Kamalaśīla, đúng như thể thức quy định. Do kết quả này, vua tuyên bố: Từ nay trở đi, tất cả phải học theo giáo nghĩa của Long Thọ. Sau đó, Ma-ha-diễn cùng với các môn đồ bị trục xuất khỏi Tây tạng.

Mặc dù Đốn ngộ Đại thừa chánh lý có tuyên bố như vậy, nhưng theo thực tế mà biết, với sở học của Kamalaśīla, truyền nhân của Trung quánDuy thức tại Ấn-độ, lại tinh thông Nhân minh luận của Dignāga; với chủ trương “đốn ngộ thành Phật” và duy chỉ bằng khẩu đầu “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”, Ma-ha-diễn không phải là đối thủ tranh biện với Kamalaśīla.

Công nhận Trung quán là hệ tư tưởng chính thức của Phật giáo Tây tạng, đồng thời Khri-srong lde-btsan cũng công bố Tăng-già Tây tạng chỉ theo một hệ Luật duy nhấtCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tì-nại-da. Như vậy, từ thủy chí chung, tại Tây tạng chỉ truyền thừa một hệ Luật duy nhất, và cũng chỉ biết đến hệ Luật này. Không như Phật giáo Hán, mặc dù hệ truyền thừa chính thứcLuật Tứ phần của Dharmagupta, nhưng đồng thời cũng tồn tại nhiều hệ Luật khác qua các công trình Hán dịch.

3. Tăng-già phục hoạt.

Hệ Luật bắt đầu truyền từ Tịch Hộ, và chính thức bởi người Tây tạng là Klu’i rgyal mtshan (Long Tràng), tiếp tục tồn tại cho đến khi gLang dar-ma diệt pháp, bấy giờ xem tạm đứt, sau đó được nối lại với dGongs-pa Rab-gsal (Tư Minh).

Sau khi Khri-srong lde-btsan chết, các Tạng vương kế vị, con ông là Khri-lde srong-btsan, và cháu ông là Khri-gtsug-lde-btsan thường được biết là Ral-pa-can, tiếp tục phát huy Phật giáo.[28] Triều Tạng vương Ral-pa-can được xem là thời cực thịnh trong lịch sử Tây tạng, về mặt quân sự cũng như sự phát triển của Phật giáo.

Ông lên ngôi khoảng năm 815, cho đến năm 838 thì mất. Truyền thuyết nói ông bị trượt té rồi chết. Thuyết khác nói ông chết vì bệnh. Thuyết khác nữa nói ông bị hai người thân Bon giáo giết. Sau khi ông chết, em ông gLang dar-ma được tôn lên ngôi vua. Lại cũng theo truyền thuyết, trong hai năm đầu trị vì, gLang dar-ma tỏ ra vẫn tôn sùng Phật giáo, nhưng sau đó chịu ảnh hưởng của Tể tướng dBas rGyal-to-re bèn cải theo Bon giáo và bắt đầu chính sách đàn áp Phật giáo khốc liệt.

rGyal-to-re nguyên là đại thần dưới triều Ral-pa-can. Tể tướng lúc bấy giờ là Đại sư Bran-ka dPal gyi Yon tan (Cát Tường Công Đức), nhưng bị rGyal-to-re vu khống là thông gian với một bà phi của Ral-pa-can nên bị hành quyết. rGyal-to-re nắm quyền từ đó.

gLang dar-ma chỉ ở ngôi được mấy năm, đến 841 thì bị một nhà sư tên là Lha-lung dPal-gyi rdo-rje (Cát Tường Kim Cang) ám sát.

Dưới chính sách bài Phật, các tự viện bị đóng cửa, sư tăng bị giết hoặc bắt buộc hoàn tục. Lúc bấy giờ chỉ có được ba vị sư trốn thoát. Đó là dMar Sha-kya, gYo dGe-‘byung và gTsang Rab-gsal. Ba người này lúc bấy giờ đang tu thiền (sgom grwa) trên núi dPal Chu-bo-ri tình cờ gặp một vị sư tên là Khyi-ra-byed-pa, mới hay rằng vua mới gLang dar-ma đang thi hành chính sách diệt Phật giáo khốc liệt; họ bèn chất các bộ Luật (‘dul ba) và A-tì-đàm (mngon pa) lên một con lừa rồi chạy trốn, ngày ẩn, đêm đi, qua Thượng mNga-ris, không ở lại đây được, bèn đi cho đến Hor gyi yul, thuộc vùng Tân cương ngày nay. Lần hồi họ đi đến vùng Amdo[29] , Đông bắc Tây tạng, gần giáp thượng nguồn sông Hoàng hà.

Một thời gian sau, họ di chuyển đến tỉnh Khams (Khang tạng) trong vùng phía Đông nam Tây tạng, tức phía Tây bắc Trung quốc, trú tại chùa Dan-tig, thuộc huyện Hóa long tỉnh Thanh hải Trung quốc ngày nay. Tại đây họ độ một người địa phương cho xuất gia, nhưng vì không hội đủ túc số Tăng nên chỉ được cho thọ Sa-di với pháp danh là dGe-ba Rab-gsal (Thiện Minh). Không bao lâu dPal gyi rDo-rjes sau khi ám sát gLang dar-ma bỏ trốn đến trú gần đó. Ba vị sư này bèn thỉnh ông làm Hòa thượng Đường đầu để truyền giới Cụ túc cho dGe-ba Rab-gsal, nhưng ông từ chối vì tự nói không còn đủ tư cách, có lẽ ý nói đã phạm trọng cấm sát giới. Thế nhưng dPal rDo- rjes cũng vận động được hai vị sư người Hán tham dự truyền giới.[30] Bấy giờ đàn truyền giới Cụ túc được tổ chức với “Ngũ nhân Tăng”, hội đủ Tăng số 5 Bí-sô hợp cách. Sa-di dGe-ba Rab gsal được thọ Cụ túc và có pháp hiệu là dGongs-pa Rab-gsal (Ý Minh). Mọi người tôn kính ông, tôn xưng là bLa chen (Đại Lạt-ma).

Tăng-già Tây tạng bắt đầu được khôi phục. Thể hệ Tăng-già được lập ở đây được gọi là hệ sMad-‘dul, Luật vùng Hạ, hay Đông luật, do hình thành trong vùng Đông nam Tây tạng.

Hai tỳ-kheo người Hán này có lẽ xuất thân từ truyền thống Dharmagupta, theo luật Tứ phần. Nguyên lai, theo lệnh vua Đường Trung tông, kể từ năm Cảnh long thứ 3 (709 Tl), tất cả những người xuất gia trong đất Hán chỉ hành theo một hệ Luật duy nhất là hệ Tứ phần của Đàm-vô-đức. Thế nhưng, trong trường hợp ở đây, điều được thấy rõ là Luật học tuy có phân biệt bộ phái, nhưng sự thọ giới không hạn chế theo bộ phái riêng biệt.

Tin đồn Tăng-già đã được phục hoạt ở Khang tạng dần dần truyền đến các tỉnh Trung bộ Vệ tạng và Tàng tạng (dBus gTsang), một phái đoàn khoảng 10 người, dẫn đầu bởi Klu-mes Tshul-khrims Shes-rab (Giới Huệ) đến cầu thọ Cụ túc. gTsang Rab-gsal (Tịnh Minh) được thỉnh cầu làm Hòa thượng Đường đầu truyền giới, nhưng ông từ chối vì tuổi quá già, và đề nghị dGongs-pa Rab-gsal (Ý Minh). Ông này cũng từ chối vì tự thấy chưa đủ hạ lạp, vì phải trên 10 năm thọ Cụ túc. Thế nhưng, vì trường hợp đặc biệt, theo đề nghị của gTsang Rab-gsal, được chuẩn nhận Hòa thượng theo quy tắc “tác pháp Thượng tọa”, nghĩa là Tăng cử hành pháp Yết-ma chuẩn nhận tỳ-kheo chưa đủ hạ lạp lên hàng Thượng tọa. Sau một thời gian học tập và hành trì luật đầy đủ theo quy định của Luật, nhóm người này bắt đầu mở rộng cộng đồng Tăng lữ Tây tạng trong nhiều địa phương.

Nhóm mười người Vệ-Tạng (dbUs gTsang gi mi bcu) này, dẫn đầu bởi Klu-mes, sau khi đắc giới ở Khams, họ quay về Vệ tạng truyền dạy Luật, lập thành hệ Đông luật (sMad ‘dul) cho tới khi Dharmapāla và các đệ tử vào Tây tạng lập thành hệ Tây luật (sTod ‘dul). Toàn bộ lịch sử truyền Luật, trong khoảng 465 năm, cho đến thời thiện hữu Gra-ba, năm Bính thân (1476) được ghi chép chi tiết bởi Thanh sử.[31]

4. Dharmapāla: Tây Luật

Sau khi gLang dar-ma bị ám sát, tình hình chính trị xã hội trở nên hỗn loạn, đế quốc Tây tạng bắt đầu suy yếu, mất dần lãnh thổ lấn chiếm trước đây. Cuối cùng, cho đến khoảng 929, Tây tạng bị chia đôi, một phần do một chính quyền yếu kém ngự trị ở Trung bộ, phần khác dưới triều đại mNga’ ris, thiết lập bởi Nyi-ma mgon (Nhật Hộ), tằng tôn của gLang dar-ma, có thủ đô là Gu-ge. Triều đại này bắt đầu khôi phục Phật giáo. Truyền đến vua Ye-shes ‘Öd (Trí Tuệ Quang) thì Phật giáo Tây tạng hưng thịnh trở lại.

Ye-shes ‘Öd là cháu năm đời của gLang dar-ma, nguyên là sư, sau đó làm vua và vẫn làm sư, trở thành vị “vua sư” đầu tiên của Tây tạng. Chính Ye-shes ‘Öd thỉnh cầu Atisha đến truyền giáo, và giai đoạn thứ hai trong lịch sử Phật giáo Tây tạng bắt đầu.

Theo tường thuật của Bu-ston, bTsan-po Khor-de về sau truyền ngôi lại cho em là Srong nge rồi xuất gia, pháp hiệu là Lha bla-ma Ye-shes ‘Öd. Ông chỉ tin pháp tướng học (mtshan-nyis pa) và tỏ ra hoài nghi Chân ngôn tông, vì trong đó chỉ bày nhiều chuyện phóng túng tính dục là dấu hiệu bại hoại của Phật pháp, do đó phái khiển 21 thanh niên sang Ấn-độ cầu học Phật pháp. Trong số này, chỉ còn hai người sống sót là Rin chen Bzang po và Legs pa‘i Shes, tiếp tục học ở Kashimr, và họ thỉnh cầu được nhiều học giả Phật học sang Tây tạng. Sau đó, thỉnh được Dharmapāla, từ Đông Ấn, bấy giờ đang du hành tại Nepal, sang Tây tạng chỉnh đốn lại quy củ Tăng-già. Dharmapāla cùng với ba vị đệ tử, là Sādhupāla, Guṇapāla và Prajñāpāla, đến vương quốc mNga’ ris. Tại đây, cùng với một số vị từ Ấn sang, đàn truyền thọ cụ túc được lập, chính thức truyền giới theo hệ Luật Căn bản Hữu bộ. Đối lại với hệ Đông Luật (sMad ‘dul) được khôi phục với dGongs Rab-gsal, hệ truyền bởi Dharmapāla được gọi là Tây luật (sTod ‘dul). Hệ này chính thức, và là hệ Luật duy nhất tồn tại cho đến ngày nay.

Tổng quát mà nói, lịch sử truyền thừa Luật tại Tây tạng được ghi nhận bởi Thanh sử nối tiếp qua ba dòng chính như sau, nếu kể theo gốc truyền từ Ấn-độ, và tất cả đều có cội ngồn từ Long Thọ:
Dòng thứ nhất: Ācārya Nāgārjuna (Long Thọ), Bhavya (Thanh Biện), Śrīgupta (dPal-sbas, Cát Tường Mật), Jñanagarbha (Ye-shes snying-po, Trí Tạng), Śāntarakṣita (Zhi-ba-‘tsho, Tịch Hộ), và sau đó truyền xuống đến sBa Ratna. Dòng này được kế thừa ở Khams (Khang Tạng) bởi bla chen dGongs-pa rab-gsal. Ở dbU và gTsang (Vệ Tạng và Tàng Tạng) được truyền qua kLu-mes.

Dòng thứ hai: truyền bởi rGyal-ba’i she-rab ở Zhang-zhung, đệ tử của Tam Hộ, ba vị đệ tử của Paṇḍita Dharmapāla mà phần cuối của danh hiệu đều gọi là Pāla. Dòng này được gọi là dòng Tây Luật (sTod-‘dul-ba).

Dòng thứ ba: đệ tử của Nāgārjuna-Guṇamati, Ratnamitra, Śrī Dharmapāla, Guṇasāgara, Dharmamāla, Ākaragupta, Śākyaśrībhadra. Śākyaśrībhara từ Ấn sang truyền cho nhiều người Tây tạng, truyền xuống về sau đến Tsong-kha-pa.

Thanh sử tường trình chi tiết dòng này, từ truyện tích Long Thọ xuất hiện ở đời, xuất gia làm đệ tử của Rāhulabhadra;[32] cuối cùng truyền vào Tây tạng, như đã được Phật thọ ký trong kinh Mañjuśrīmūlatantra (Văn-thù căn bản nghi quỹ).[33]

Truyện Śākyaśrī (bhadra) được kể trong chương cuối (chương XV) của Thanh sử. Sư gốc Kashmir, sinh khoảng 1127 Tl, đến Tây tạng khoảng năm 1204, trú lại đây khoảng 10 năm, rồi trở về Kashmir và tịch ở đó vào tuổi 99, khoảng năm 1225 Tl[34]

5. Bí-sô-ni

Khởi thủy, khi Tịch Hộ (Śāntarakṣita) lập đàn truyền cụ túc đầu tiên, vì chỉ có các bí-sô mới có khả năng đi từ Kashmir sang Tây tạng, chỉ được truyền cho nam giới, vì không hiện diện Bí-sô-ni nào. Trong biểu tấu của Hòa thượng Ma-ha-diễn gởi vua Khri-srong lde-btsan như được ghi chép trong Đốn ngộ Đại thừa chánh lý, bà di mẫu cùng với thứ phi của vua “gọt bỏ mái tóc xanh” mà xuất gia. Trong số gọi là “Tăng Ni người Hán” bị dẫn độ về Lhasa như là “tù binh” (phu lỗ), không rõ có hiện diện các tỳ-kheo-ni hay không. Sau hòa ước “Thanh thủy hội minh”, một số được trả về bản quốc Trung hoa, có thể còn một số lưu trú lại Tây tạng. [35] Nhưng không thấy đề cập gì đến sự hiện diện của các tỳ-kheo-ni người Hán hay Tạng vào lúc bấy giờ. Ngay tại Trung quốc, sau khi Tăng tỳ-kheo được lập trực tiếp bởi Tăng từ Ấn sang, nữ giới đầu tiên theo lý luận của Tăng Trung quốcgiới thể từ Tỳ-kheo Tăng mà có, do vậy nữ giới được phép thọ cụ túc thành tỳ-kheo-ni. Nhưng về sau, Luật sư Cầu-na-bạt-ma (Guṇavarma) từ Kashmir sang không chấp nhận giải thích Luật này, do đó đã cử người sang Tích lan thỉnh được các Tỳ-kheo-ni vốn theo hệ luật Theravāda, đủ số 10 vị, thành lập giới đàn “nhị bộ Tăng”[36] truyền Cụ túc cho nữ giới. Kashmir là khu vực truyền bá của Luật Hữu bộ, và các Tăng sĩ người Ấn thường xuyên từ đây vào Tạng, khó có thể được chấp nhận làm Tỳ-kheo-ni mà không đủ nghi thức nhị bộ truyền giới.

Vả lại, các Tăng sĩ người Hán theo Thiền tông, với quan điểm “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”, chỉ cốt giữ trọn phẩm cách người tu hành mà không câu nệ giới pháp. Vấn đề “đắc giới” hay không, với họ không quan trọng; mặc dù điều này rất quan trọng trong truyền thống Hữu bộ. Các bộ phái khác cũng tương tự. Cho nên, trường hợp có thể xảy ra là các bà Phi Tần cùng với các mệnh phụ của triều vua Khri-srong lde-btsan được nhận là xuất gia mà không có giới đàn “nhị bộ” thọ Cụ túc để thành Tỳ-kheo-ni.

Tuệ Sỹ
03.2016
(Hương Tích Phật Việt)

[1] Tạng: Zhi ba ‘tsho; trong đó, “‘tsho” thường có nghĩa “sinh hoạt” nên về Hoa ngữ có người hiểu là “Tĩnh Mạng” hay “Tịch Mạng”; “‘tsho” cũng có nghĩa là “hộ” như Buddharakṣita (Phật Hộ) dịch là “Sangs-rgyas-‘tsho”, Saṇgharakṣita (Tăng Hộ) dịch là “dGe-‘dun-‘tsho”.

[2] Hai vị kia là Srong-btsan sGam-po (khoảng 569-649 Tl), người đầu tiên thiết lập đế chế Tây tạngchính thức du nhập Phật giáo từ ngã Nepal và Trung quốc. Vị thứ hai, Ral-pa-can (khoảng 806-838 Tl), củng cố sự phát triển của Phật giáo, đã hoàn thiện chế độ phiên dịch Phạn-Tạng với những chuẩn mực hàn lâm cho sự nghiệp phiên dịch, chú sớ, tạo nền tảng cho sự phát triển văn học , tư tưởng của dân tộc Tây tạng.

[3] rGyal rabs gsal ba’i me long (Gương sáng Vương triều), cổ sử Tây tạng, soạn bởi bSod-nams rGyal- mtshan (Phước Tràng, 1312-1375 TL); Hoa dịch bởi Lưu Lập Thiên, Tây tạng vương thống ký, Dân tộc xuất bản xã, Bắc kinh 2000, tr. 116-118.

[4] Kim Thành Công chúa 金城公主 (Tạng: Kim-sheng khong-co, hoặc Gyim-sheng kong-jo), con gái của Tự Ung vương Lý Thủ Lễ, được Đường Trung tông nhận làm con nuôi. Bấy giờ vương hậu ‘Bro-bza’ Khri-ma-lod, bà nội của Tạng vương Khri-lde-gtsug-brtan đảm nhiệm nhiếp chánh khi vua còn nhỏ, do chính sách hòa thân với Đường triều, muốn cưới công chúa Đường triều cho Tạng vương. Có khá nhiều truyền thuyết khác nhau về hôn nhân này, mặc dù Kim Thành công chúa được cống nạp cho Tạng vương là sự kiện lịch sử. Trung tông bèn cống nạp công chúa Kim Thành theo yêu cầu của Tạng vương. (Cf. dBa’ bzhed: The Royl Narrative Concerning the Bringing of the Buddha’s Doctrine to Tibet, transl. by Pasang Wangdu & Hildegard Diemberger, 2000). Truyền thuyết “tranh con” cũng được ghi chép khá nhiều trong cổ sử Tây tạng, như Phật giáo sử (chos ‘byung) của Bu-ston, Ký sự họ Ba (sBa bzhed), Tây tạng vương thống ký (rGyal rabs gsal ba’i me long), Thanh sử (Deb ther sngon po), nhưng các nghiên cứu hiện đại nghi ngờ truyền thuyết này. Cựu Đường thư ghi, Kim Thành Công chúa mất sau ba năm, tin được báo về triều đình, do đó, năm mất xác định là 739. Năm sinh cuta Khri-srong lde-btsan được ghi là 742. Cf. 津曲真一『バシェ』訳註 (2010), 石硕 – 金城公主事迹中一个疑案的研究 (2002).

[5] Cảnh đức Truyền đăng lục, quyển 4, mục lục. Lịch đại pháp bảo ký, T51n2075, tr. 184c17. Trong các sử liệu này không thấy nói đến người Tây Tạng học Thiền với Kim Hòa thượng.

[6] de’i dge ba’i bshes gnyen za hor rgyal po’i bu dge slong shanti ra ksi ta zhes bya ba’i ‘dul skal yin no.Tạng văn, sBa bzhed, nguồn: https://sites.google.com/site/tibetological/sba-bzhed. Cf. sBa bzehd, cổ sử thế kỷ 8, ghi những sự kiện dưới thời vua Khri-srong lde btsan, viết bởi sBa gSal-snang, bản dịch Nhật bởi Shin’ichi Tsumagari,『バシェ』訳註――マシャン・ドムパキェの失脚――津曲真一四天王寺大學紀要第 50 号 (2010年 9月); Deb ther sngon po, sử Tây tạng, viết bởi Gö Lo-tsa-ba gzhon nu dpal, 1392-1481; bản dịch Anh, The Blue Annals, bởi George N. Roerich, 1949, 1966. dBa’ bzhed, trong bản dịch Anh bởi Wangdu & Diemberger, cho một phiên bản khác về vị Kim hòa thượng này.

[7] Lịch đại Pháp bảo ký, quyển 1, T51n2075, tr. 184c17; Cảnh đức Truyền đăng lục, quyển 4, T51n2076, tr. 224c25.

[8] Vương thống ký nói ông lên ngôi lúc mới 8 tuổi.

[9] sans rgyas kyi gsung rab bam po ston zhu’o (sba bzhed, nguồn tư liệu, dẫn trên).

[10] sBa bzhed, dẫn trên: rgya me mgo dang | rgya gar a nan ta dang. Obermiller (History of Buddhism by Bu-ston) đọc là hai vị sư người Hán Me và Go (?). Pháp Tôn đọc theo phiên âm là Mai-ma-quả (Tây tạng tiền hoằng kỳ Phật giáo, Hiện đại Phật giáo học thuật tòng thư, quyển 76, Đài Bắc, 1979, tr. 319).

[11] Mang yul, vùng mNga’ ris hạ, đông nam Tây tạng. Padmasambhava và Śāntarakṣita vào Tạng ngang qua ngõ này.

[12] Danh hiệu mà Bu-ston dùng để gọi Śāntarakṣita.

[13] Dānaśīla (Thí Giới) sau này sẽ là người đứng đầu trong Viện Tịnh giới, phiên dịch Luật tạng. Bảy người theo thuyết này được ghi lại trong Vương thống ký, dẫn trên, tr. 121.

[14] Rāhula ở đây tức là Rāhulabhadra, mà Cát Tạng (Trung quán luận sớ) nói là người đồng thời với Long Thọ. Truyền Tây tạng nêu trên nói là Thầy của Long Thọ. Thuyết khác nói là đồ đệ của Thánh Thiên (Āryadeva).

[15] Xuất Tam tạng ký tập, quyển 12, “Tát-bà-đa bộ ký mục lục tự”, T55n2145, tr. 89a20.

[16] Vương thống ký, dẫn trên, tr. 129-30, gọi đây là cuộc tranh luận giữa ston min pa và tsen min pa (đốn môn phái và tiệm môn phái, đọc theo Tạng âm).

[17] Tác phẩm do đệ tử của Hòa thượng Ma-ha-diễn là Vương Tích viết, được phát hiện tại Đôn hoàng vào năm 1990 bởi Paul Pelliot, nhà khảo cổ học người Pháp. Nguyên văn Hán với hiệu đínhchú giải bởi Nhiêu Tông Hy: Vương Tích Đốn ngộ Đại thừa chánh lý yếu quyết tự thuyết tịnh hiệu ký, Hiện Đại Phật giáo học thuật tòng thư, tập 79, tr. 307-367. Pháp văn, phiên dịchnghiên cứu chi tiết, Le Concile de Lhasa par Paul Demiéville, Presses Universitaires de France.

[18] Bản hiệu ký của Nhiêu Tông Hy, dẫn trên, tr. 334: 我大師密授禪門, 明標法印. 皇后沒盧氏一自虔誠, 劃然開悟, 剃除紺髮, 披掛緇衣朗戒. 珠於情田, 洞禪宗於定水, 雖蓮花不深, 猶未足為喻也. 善能為方便, 化誘生靈, 常為贊普姨母悉囊南氏, 及諸大臣夫人卅餘人說大乘法, 皆一時出家矣, 亦何異波闍波提 為比兵尼之唱首爾.

[19] xem cht. 17 trên.

[20] 皇后沒盧氏. Demiéville cho rằng đây là sự khoa đại cố ý; vì “hoàng hậu” ở Trung quốc chỉ cho vợ chính của Hoàng đế; mà bà Một-lô thị, đồng nhất với phát âm Tạng ngữ là mBro’, chỉ là môt trong những thứ phi của Khỉ-srong lde-btsa.

[21] Tây tạng vương thống ký, Hoa dịch, tr. 122: ‘bro bza’ byang chub sgron.

[22] Nhiêu Tông Hy, dẫn trên, tr. 356.

[23] Các tư liệu liệt kê về sự kiện này, xem Thích Huệ Nghiêm, Trung quốc Thiền tông tại Tây tạng, Chung-Hwa Buddhist Journal, No. 07, (1994), Taipei: The Chung-Hwa Institute of Buddhist Studies; cht. 54.

[24] Thích Huệ Nghiêm, sách dẫn trên, tr. 227.

[25] Từ năm Thiên bảo thứ 4 (755), khi vua Khri lDe Srong btsan mới lên ngôi (13 tuổi), cho đến Chí đức 1 (763), quân Tây tạng đánh chiếm trước sau 9 châu của Trung quốc. Năm Chí đức 1 (763), quân Tây tạng đánh chiếm kinh đô Trường an trong 15 ngày, đuổi vua Đường Đại tông chạy trốn qua Thiểm tây. Năm sau Tây tạng công hãm Lương châu… Năm 781, Tây tạng chiếm Sa châu. Năm 783, Đường Đức tông phải ký ước, cắt khá nhiều đất nhượng bộ Tây tạng.

[26] Bu-ston, sách đã dẫn trên, tr. 192.

[27] Dẫn theo bản hiệu ký của Nhiêu Tông Hy, dẫn trên.

[28] Vương thống ký nói, con lớn của Khri lDe srong btsan (Sad na legs) rất hâm mộ Phật pháp, xuất gia làm Sa-môn. Dar-ma ưa gây ác sự, không kham làm vua, nên ngôi vua được truyền cho con thứ là Ral pa can. Ông lên ngôi lúc 12 tuổi, sau khi vua cha chết.

[29] Sinh quán của vị Dalai Lama 14 hiện nay.

[30] Hai vị này có tên là Ke-bang và Gyi-bang, theo Bu-ston; Obermiller, dẫn trên. tr. 202.

[31] The Blue Annals (1949), 1996, từ trang 77-101.

[32] La-hầu-la được Cát Tạng nhắc đến trong Trung quán luận sớ, T42n1824, tr. 40c16.

[33] The Blue Annals, dẫn trên, 1996; p. 34-47.

[34] Roerich, dẫn trên, tr. 1062-73

[35] Cựu Đường thư, quyển 196 hạ, “Thổ phồn truyện hạ”: “Năm Kiến trung thứ 3 (782), phóng thích các tướng sĩ và tăng ni, có đến 800 người, bị bắt làm tù binh trước đó…” Đây có thể là các “tù binh” (phu lỗ) bị bắt trong trận tấn công chiếm Trường an, đuổi vua Đường Đại tông chạy trốn qua Thiểm tây, trong năm 763. Sau đó quân Tây tạng rút lui khỏi Trường an, tấn công các nơi, đánh chiếm rất nhiều châu quận của nhà Đường. Năm Kiến trung thứ 4 (783), Đường Đức tông nối ngôi sau khi Đại tông mất, bắt buộc phải ký hòa ước “Thanh thủy hội minh” và nhượng một phần đất đã bị Tây tạng chiếm.

[36] “Nhị bộ Tăng”: Tỳ-kheo Tăng túc số 10 vị, Tỳ-kheo-ni Tăng túc số 10 vị.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26379)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12744)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29509)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27709)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25903)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15012)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16231)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22720)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14570)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12618)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18899)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14726)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43853)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47480)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13649)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14567)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12523)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40384)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14408)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14129)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39674)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13841)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37285)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40023)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13775)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37205)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11740)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22522)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12486)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12546)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13011)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14814)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12427)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11936)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11919)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12361)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30646)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31862)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35371)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27777)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11443)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31680)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27053)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24106)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30846)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27068)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28081)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23228)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23552)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21525)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26235)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13006)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21859)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14093)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37976)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32071)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28526)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19588)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7296)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant