Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chuyển Hóa Khổ Đau Thành Tình Yêu ThươngLòng Bi Mẫn

04 Tháng Sáu 201910:10(Xem: 3258)
Chuyển Hóa Khổ Đau Thành Tình Yêu Thương Và Lòng Bi Mẫn

CHUYỂN HÓA KHỔ ĐAU THÀNH TÌNH YÊU THƯƠNGLÒNG BI MẪN
– MỘT BÀI PHỎNG VẤN GARCHEN RINPOCHE 

Gyurme Avertin chuyển dịch Tạng-Anh.
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

 

 Chuyển Hóa Khổ Đau Thành Tình Yêu Thương Và Lòng Bi Mẫn



Với nụ cười rạng rỡliên tục quay kinh luân, Garchen Rinpoche[1] đã viếng thăm [trung tâm] Lerab Ling vào năm 2009 để giảng dạy trong khóa nhập thất mùa hè của Rigpa. Trong bài phỏng vấn này, Ngài nhớ lại hai mươi năm sống trong trại lao động trong thời kỳ chính trị bất ổn thời Cách mạng Văn hóa của Trung Quốcgiải thích cách thức mà trải nghiệm giúp Ngài làm sâu sắc sự hiểu về giáo lý Phật Đà.

 

Thưa Rinpoche, Ngài đã sống hai mươi năm của cuộc đời trong tù; thế nhưng, Ngài rõ ràng luôn ngập tràn niềm hoan hỷ và Ngài hiến dâng bản thân để đem lại lợi lạc cho chúng sinh khác. Xin Ngài chia sẻ vài lời khuyên về cách thức Ngài đã có thể vượt quachuyển hóa khổ đau cùng những khó khăn lớn lao mà Ngài đã gặp phải?

Nói chung, chúng ta đều đang ở trong cùng hoàn cảnh. Tất cả hữu tình chúng sinh trong tam giới của sự tồn tại đều trong tù ngục luân hồichúng ta đều trải qua khổ đau của luân hồi. Đức Phật nói rằng cách tốt nhất để vượt qua khổ đau là hiểu hai chân lýchân lý tương đốichân lý tuyệt đối. Thậm chí nếu bạn không có bất kỳ phẩm tính rất đặc biệt nào, nếu bạn hiểu hai chân lý, điều đó sẽ cho phép bạn giải phóng bản thân khỏi khổ đau – thậm chí khổ đau hiện tại của bạn. Điều quan trọng là hiểu rằng khổ đau mà bạn đang trải quakết quả của nghiệp, những hành động trong quá khứ của bạn. Hiểu điều đó đã khiến cho khổ đau trở nên có thể chịu đựng được hơn, bởi bạn thấy rằng nó không đến từ bên ngoài. Tại sao tôi đang trải qua khổ đau? Bởi những ác hạnh mà tôi đã phạm phải trong quá khứ.

Và giống như vậy, bây giờ, tôi có tất cả những cảm xúc tiêu cực này, thứ khởi lên trong tâm tôi và khiến tôi phạm phải các ác hạnh và vì thế trong tương lai, tôi sẽ trải qua thêm nhiều khổ đau. Bởi vậy, giờ đây, bất cứ khi nào tôi trải qua khổ đau, tôi biết rằng điều đó gây ra bởi các ác hạnh mà tôi đã phạm phải trong quá khứ và điều đó cần thực sự thúc đẩy tôi làm điều gì đó, nỗ lực để tiêu trừ nguyên nhân của khổ đau thêm nữa, những cảm xúc phiền não và v.v. Khi khổ đau khởi lên – ví dụ, bạn bị bệnh – thì lập tức bạn cần nghĩ rằng, “Ồ, điều này đang tịnh hóa một vài ác nghiệp mà tôi đã tích lũy”. Đó là cách biến khổ đau thành thứ gì đó có thể chịu đựng được hơn và tích cực hơn. Nhờ sự hiểu này, khi khổ đau xảy đến, bạn có thể nghĩ rằng, “Điều này thật tốt với tôi”.

Là một hành giả chẳng có mấy kinh nghiệm, có lẽ con có thể bắt đầu áp dụng lời khuyên này cho vài khổ đau nhỏ bé, ví dụ, nếu con bị cảm lạnh hay bệnh nhẹ. Nhưng con sẽ thấy bị áp đảo nếu bị ném vào tù. Liệu Ngài có thể áp dụng điều này ngay lập tức khi Ngài thấy bản thân trong tình cảnh mà với hầu hết mọi người là không thể chịu đựng?

Như tôi đã nói trước đó, bạn cần hiểu chân lý tương đốituyệt đối. Hiểu chân lý tương đối tức là hiểu rằng mọi thứ khởi lên từ các nguyên nhân. Kết quả đến từ các nguyên nhân. Khổ đau mà chúng ta trải quakết quả của nghiệp của chúng ta; vì thế, trước tiên chúng ta cần phát triển một sự hiểu sâu sắc về quy luật của nghiệp – nhân và quả.

Hiểu chân lý tuyệt đối là thấy bản tính của tâm. Tâm trong bản tính của nó thì không có bất kỳ khổ đau nào. Khi chúng ta hiểu bản tính của tâm, chúng ta thấy rằng nó thực sự là trí tuệtrí tuệ có thể tiêu trừ ngay cả ý nghĩ khổ đau vi tế nhất. Khi chúng ta đang an trú trong khía cạnh trí tuệ, bất cứ ý nghĩ nào khởi lên đều được giải phóng trong cõi giới trí tuệ. Trí tuệ này nghĩa là khi bạn cần nghĩ về thứ gì đó thì bạn có thể nghĩ theo cách thức rất chuẩn xác, có mọi ý nghĩ mà bạn cần và rất chính xác, rất rõ ràng. Nhưng khi bạn không cần những ý nghĩ này, bạn có thể đơn giản duy trì trong trạng thái sáng suốt, thoát khỏi những ý nghĩ khởi lên. Với sự chứng ngộ về chân lý tuyệt đối này, bạn có thể đối mặt với khổ đau và nó trở thành một kiểu trải nghiệm hoan hỷ hơn.

Điều đó thì không dễ dàng lúc bắt đầu. Bạn cần phải thực hành thiền địnhđạt được vài sự ổn định. Ban đầu, khi bạn thọ nhận giáo lýquán chiếu về chúng, bạn có thể đạt được vài sự hiểu, nhưng chỉ sự hiểu đó thì không giúp bạn giải quyết những kiểu khổ đau dữ dội hơn.

Khi tôi đến trại lao động, bằng cách áp dụng hai khía cạnh của chân lý tương đốituyệt đối, tôi không trải qua nó như là thứ gì đó đau đớn và không thể chịu được. Nhưng có hai người đàn ông trong khu trại của chúng tôi đã tự tử bởi họ không thể chịu đựng được. Khổ đau quá lớn và họ quyết định kết thúc cuộc đời. Nhưng chúng tôi không bao giờ nghĩ về điều đó – thực sự, chúng tôi liên tục hoan hỷhạnh phúc. Những người tống chúng tôi vào tù và gọi chúng tôi bằng đủ kiểu tên gọi đang băn khoăn: “Điều gì xảy ra với họ vậy? Những Lama này luôn luôn hạnh phúc”. Điều đó đến từ sự hiểu về chân lý tương đốituyệt đối.

Khi bạn trải qua khổ đau, điều được giảng dạy là bạn cần lập tức nghĩ về khổ đau của chúng sinh khác. Bạn nhận ra rằng: “Tôi không phải là người duy nhất. Mọi chúng sinh khác cũng đều đang đau khổ”. Khi bạn nghĩ về khổ đau của chúng sinh khác, khổ đau của bạn dường như nhỏ bé một cách kì cục khi so sánh với tất cả khổ đau trên thế gian; và sau đó, điều thường xảy ra là bạn quên hết những khổ đau của bản thân.

Thực hành vun bồi Bồ đề tâm rất quan trọng. Trước tiên, bạn nghĩ về tất cả hữu tình chúng sinh, cách thức mà họ đều đã từng là cha hay mẹ của bạn trong một đời quá khứlòng từ ái mà họ đã dành cho bạn. Kết quả là, bạn quyết tâm đền đáp tình yêu thương mà họ đã dành cho bạn.

Nói một cách đơn giản, chúng ta có điều được gọi là tri kiến, thiền định và hành động. Tri kiếnnhận ra rằng tất cả hữu tình chúng sinh đều đã từng là cha mẹ chúng ta lúc này hay lúc khác và rằng họ đã cực kỳ tử tế với chúng ta. Thiền định là mong muốn đền đáp lòng từ này, thực sự vun bồi một cảm giác yêu thương sâu sắc dành cho tất cả những hữu tình chúng sinh này. Và hành động là, dù làm gì, hãy chắc chắn rằng nó lợi lạc và hữu ích cho chúng sinh khác. Điểm then chốt là vun bồi tình yêu thương như vậy dành cho chúng sinh lặp đi lặp lại.

Những vị Lama nào khác đã cùng ở tù với Ngài?

Có mười nghìn tù nhân, bao gồm khoảng bốn trăm người Tây Tạng từ nhiều vùng khác nhau, Golok, Amdo, Kham và thậm chí Lhasa. Trong số nhiều vị Lama có đạo sư vĩ đại Khenpo Munsel[2] – người chẳng hề trải qua bất kỳ kiểu khổ đau nào khi Ngài ở đó – Adeu Rinpoche[3] và Ngài Dodrupchen Rigdzin Tenpe Gyaltsen[4]. Tôi đã ở cùng phòng với Dodrupchen Rinpoche trước khi Ngài viên tịch vào năm 1961.

Làm sao mà Ngài có thể thọ nhận những giáo lý từ Khenpo Munsel trong môi trường đó?

Mọi chuyện không dễ dàng, bởi chúng tôi luôn luôn bị giám sát và chúng tôi phải lao động. Nhưng đôi lúc khi tôi ốm hay giả vờ bị ốm, Khenpo Munsel sẽ đến và chia sẻ vài lời giảng dạy, một cách bí mật. Chúng tôi không được phép có bất kỳ bản văn nào trong tù; vì thế, Ngài thường chỉ giảng dạy vài từ để tôi có thể ghi nhớ chúng.

Khenpo Munsel sống cùng với sáu vị Lama khác trong một căn phòng. Tất cả đều có những vấn đề về thân thể và không thể làm việc. Vì vậy, họ có thể ở trong phòng và không có nhiều nỗi sợ về việc bị lính gác phát hiện. Lính gác đôi khi sẽ đến kiểm tra, nhưng lúc khác thì chư vị được ở trong phòng và một chút bánh mì hay thứ gì đó sẽ được để lại cho chư vị ăn. Tôi trẻ hơn vào lúc đó, do vậy, tôi phải làm việc khoảng tám giờ mỗi ngày. Đôi lúc, khi tôi được nghỉ hay khi tôi bị ốm, tôi sẽ thọ nhận vài giáo lý ngắn gọn một cách bí mật.

Làm sao mà Ngài thực hành điều Khenpo Munsel đã dạy?

Chúng tôi thường thọ nhận những chỉ dẫn từ Ngài và sau đó thực hành chúng một cách bí mật, và tiếp đấy, chúng tôi sẽ thọ nhận thêm những chỉ dẫn. Dĩ nhiên, tôi không thể ngồi kiết giàthực hành; vì thế, tôi thực hành khi tôi đáng lẽ phải đang ngủ. Chủ nhật là ngày nghỉ và tôi thường ngồi trên giường cả ngày. Khi tôi làm việc, ăn uống hay giao tiếp với người khác, tôi luôn cố gắng duy trì sự tỉnh thức, chính niệmcảnh giác. Nhưng khi tôi trên giường và vào những ngày Chủ nhật, tôi trì tụng những thực hành của mình. Tôi vốn đã biết cách thực hành trước khi vào tù bởi cha và chú của tôi đều là những đạo sư vĩ đại và họ dạy tôi từ khi tôi mười tuổi. Bởi vậy, trước khi tôi vào tù vào năm hai mươi tư tuổi, tôi đã có chút kiến thức về cách thức thực hành Đại Thủ Ấn (Mahamudra), Tsa-lung và v.v. Và dĩ nhiên, được gặp gỡ Khenpo Munsel là điều vô cùng lợi lạc, bởi dòng truyền thừa ân phước gia trì vĩ đại mà Ngài nắm giữ. Vì thế, tôi thực hành như vậy từ thời điểm vào tù, khi tôi hai mươi tư tuổi, cho đến khi được thả, khi tôi bốn mươi tư. Khi tôi được thả, cùng với những Lama khác, tôi đã không ngủ trong tám hay chín năm.

Ban ngày, tôi thường tiến hành các hoạt động của mình, gặp mọi người, lao động và v.v. và ban đêm, tôi chỉ thực hành, ngủ một chút rồi lại thực hành thêm.

Trong tù, Ngài chắc hẳn đã thấy rất nhiều khổ đau xung quanh. Liệu Ngài có thể giúp đỡ người khác một cách vật lý hay đó là điều gì đó mà Ngài chỉ có thể thực hành bằng tâm?

Điểm chính yếu là vun bồi thái độ yêu thương lớn lao trong tâm, bởi nếu bạn có thể làm điều đó một cách chân chính, điều đó đem lại lợi lạc to lớn cho chúng sinh khác. Tâm có thể kết nối [với nhau]. Nếu bạn thực sự có một thái độ yêu thương thì khi bạn bước vào phòng, mọi người sẽ hạnh phúc và bạn sẽ có tác động tích cực với họ. Ví dụ, khi vài người nhất định gọi điện thoại cho bạn, điều đó khiến bạn hạnh phúc, nhưng khi người khác gọi điện, nó không có tác động như vậy.

Tại sao hữu tình chúng sinh khổ đau? Họ khổ đau bởi chấp ngã. Khi bạn trao cho họ tình yêu thương, họ sẽ cảm thấy cởi mở và yêu thương hơn với bạn và cùng lúc, họ sẽ quên đi bản thân. Chấp ngã sẽ ít hơn và họ sẽ bớt đau khổ. Vì vậy, đây là cách tốt nhất để vượt qua khổ đau. Cách tốt nhất để giúp đỡ chúng sinh khác là làm lợi lạc tâm họ.

Khi bạn nghĩ về hữu tình chúng sinh, những vị đã tử tế với bạn như người mẹ từ ái, bạn quên đi bản thân. Bạn từ bỏ chấp ngã. Điều này đem lại lợi lạc cho bạn và chúng sinh khác cùng lúc. Bồ đề tâmgiáo lý đặc biệt của Đức Phật. Chúng ta gọi nó là ‘tình yêu thương lớn lao’, bởi nó là tình yêu thương dành cho tất cả hữu tình chúng sinh – ngay cả với kẻ thù. Khi bạn yêu thương chúng sinh khác, sự an lành của bản thân bạn sẽ tự nhiên được hoàn thành, bởi bạn buông bỏ nguyên nhân của khổ đau: chấp ngã. Khi bạn trao tình yêu thương của bạn cho ai đó, cái tôi sẽ không còn ở đó, chỉ còn người khác. Bằng cách yêu thương người đó, bạn làm lợi lạc anh hay cô ấy và cả chính bạn, bởi không còn chấp ngã. Vì thế, yêu thương tất cả hữu tình chúng sinh đem lại lợi lạc vô biên. Đó là tình yêu thương của Đức Phật.

Nếu bạn thực sự có thể vun bồi một thái độ yêu thương, bạn sẽ đem lại lợi lạc to lớn cho thế giới. Điều này đến từ tâm và nếu càng nhiều người phát triển kiểu thái độ đó, nó sẽ cực kỳ lợi lạc. Đó là lý do tôi luôn luôn ngạc nhiên bất khi nào tôi nghe nói rằng một người – chứ đừng nói là nhiều người – đang nhập thất, bởi chỉ một người đó thôi cũng sẽ làm lợi lạc rất nhiều hữu tình chúng sinh. Đây là giáo lý đặc biệt của Đức Phật. Bằng cách vun bồi một thái độ yêu thương theo cách này, chúng ta có thể làm lợi lạc hữu tình chúng sinh ở mức độ lớn lao.

Nếu nhiều người thêm nữa trên thế giớithái độ yêu thương đó, thì sẽ có ít vấn đề hơn. Thay vào đó, nếu bạn có sân hận trong tim, bạn sẽ gặp phải các cuộc chiến đấu, tranh cãi và những chuyện như thế. Nếu một nhóm người có thể vun bồi thái độ yêu thương hơn, những người giận dữ sẽ nhận được tình yêu thương đó và nghĩ rằng: “Họ là bạn bè của chúng ta, chúng ta sẽ không động đến họ. Chúng ta sẽ không cãi cọ với họ, chúng ta sẽ không tranh đấu với họ. Chúng ta có thể giải quyết mà không cần tranh đấu”. Vấn đề là, ngày nay, dường như ngày càng ít người vun bồi tình yêu thương và ngày càng nhiều người vun bồi sự sân hận và đó là lý do có ngày càng nhiều vấn đề.

Ngài có cảm thấy bất kỳ sân hận hay thù ghét nào với những người giam cầm Ngài?

Ban đầu, tôi thực sự, thực sự cảm thấy tức giận với họ; nhưng Khenpo Munsel quở trách tôi nhiều lần và bảo rằng tôi không nên hành xử như thế. Tôi rất buồn bã bởi họ làm rất nhiều chuyện tồi tệ, không chỉ với tôi mà với cả những người khác. Vì vậy, khi mới vào tù, tôi thực sự, thực sự giận dữ và tôi đã cố gắng gây rối, nhưng sau đó, Khenpo Munsel bảo tôi không nên làm như thế. Và khi tôi hiểu rằng tất cả là kết quả của nghiệp, tôi không còn giận dữ nữa. Cuối cùng, những lính gác thực sự khá tốt bụng với tôi.

Xin Ngài nói đôi chút về những phẩm tính của Khenpo Munsel? Ngài có kỷ niệm đặc biệt nào về Khenpo Munsel?

Ngài luôn luôn như vậy. Ngài chẳng có chút sân hận hay tiêu cực nào. Ngài chẳng còn tâm bình phàm nữa. Từ thời điểm Ngài vào tù, nó giống như Ngài ở một mức độ khác với những người còn lại. Ngài có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn và những quản ngục chẳng gây rắc rối gì cho Ngài. Ngài sở hữu kiểu hiện diện như thế.

Ví dụ, có sáu vị Lama khác sống cùng phòng với Ngài và lần nọ, họ trì tụng 100.000 biến Lời Nguyện Bảy Dòng. Lính gác phát hiện ra và những Lama cực kỳ lo sợ rằng họ sẽ gặp rắc rối. Khi lính gác đi vào, không khí rất căng thẳng, nhưng ngay khi họ đến trước Khenpo Munsel, họ dường như quên mất điều muốn làm. Bất cứ khi nào họ muốn la mắng hay đánh đập, điều đó sẽ biến mất đơn giản nhờ việc đến trước Ngài.

Những người khác có thể làm điều gì đó rất nhỏ nhặt và gặp nhiều rắc rối, nhưng Ngài thì có thể làm khá nhiều điều Ngài muốn và những quản ngục cũng chẳng làm hại Ngài. Ví dụ, khi Khenpo Munsel đi tù, Ngài nói rằng Ngài không thể đi lại và khi họ thấy Ngài, họ bảo rằng, “Đúng vậy, điều đó chắc là đúng”. Bất cứ khi nào Ngài đi ra ngoài, người ta phải đỡ Ngài, hoặc Ngài sẽ đẩy bản thân bằng tay nhưng Ngài không thể đi và những lính gác chẳng bao giờ nghi ngờ. Họ tin tưởng Ngài, nhưng họ không tin ai khác. Khenpo Munsel sống trong tù và không đi lại trong hai mươi năm hay hơn. Và ngày Ngài được thả, Ngài đã đi.

Con nghĩ rằng nhiều người, nếu họ sống hai mươi năm trong tù như Ngài đã làm, sẽ thấy rằng họ đã đánh mất hai mươi năm trong đời. Ngài có nhìn nhận như vậy hay không?

Không. Đó không phải là lãng phí thời gian. Đó là một sự tịnh hóa rất nhiều nghiệp. Nhiều người chết trong những năm tháng ấy. Chúng tôi mất rất nhiều người bởi chiến tranh, nạn đói và bệnh dịch, nhưng về cơ bản, tôi đã xoay sở để sống sót qua tất cả.

Trong tù ngục, chúng tôi thực hành, vì thế, chúng tôi không lãng phí thời gian. Tất nhiên, nếu bạn không có nhiều hiểu biết về quy luật của nghiệp, nhân và quả, thì bạn có lẽ chỉ tập trung vào khổ đau và khó khăn mà bạn trải qua và khi ấy, những năm tháng này sẽ bị lãng phí. Nhưng đó không phải là trải nghiệm của tôi.

Liệu Ngài có bất kỳ lời khuyên chân thành nào dành cho những hành giả về cách mà họ có thể chuyển hóa khổ đau và đối mặt với các khó khăn? Đó có phải là phát triển thái độ yêu thương với chúng sinh khác mà Ngài đã miêu tả trước đó?

Bạn cần phát triển thái độ yêu thương này và cũng cần thực hành Tonglen, trao hạnh phúcan lành của bản thân cho chúng sinh khác và nhận lấy khổ đau của họ. Nếu bạn thực sự có thái độ yêu thương, điều đầu tiên bạn làm là nhận lấy khổ đau của chúng sinh khác. Khi thấy ai đó mà bạn yêu thương hay ai đó mà bạn biết đang đau khổ, lập tức, bạn nhận lấy khổ đau của họ và bạn trao yêu thươnghạnh phúc cho họ.

Đó là ý nghĩa của yêu thương ở mức độ tâm linh – mức độ Giáo Pháp, bạn có thể nói vậy. Khi bạn yêu thương ai đó theo cách thức bình thường, bạn yêu họ chừng nào họ yêu bạn và tốt bụng với bạn. Và ngày mà người đó không còn yêu bạn nữa, bạn ngừng yêu thương họ và không trao tình yêu thương của bạn cho họ. Đó là cách mà mọi chuyện thường xảy ra. Trong khi kiểu yêu thương theo Giáo Pháp là trao tình yêu thương, hạnh phúcan lành và nhận lấy khổ đau của chúng sinh khác – bất kể thế nào – dù cho người khác làm điều tồi tệ nhất có thể với bạn. Bạn vẫn trao đi.

 

Nguồn Anh ngữ: https://www.rigpawiki.org/index.php?title=Transforming_Suffering_into_Love_and_Compassion%E2%80%94An_Interview_with_Garchen_Rinpoche.

Gyurme Avertin chuyển dịch Tạng-Anh.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

 



[1] Theo Rigpawiki, Garchen Rinpoche – Konchog Gyaltsen – vị Garchen Rinpoche thứ 8 (sinh năm 1936) là một đạo sư Drikung Kagyu, người nổi tiếng trong thế kỷ Mười ba là thành tựu giả Gar Chodingpa, một tâm tử của Tổ Kyobpa Jigten Sumgon, vị sáng lập truyền thừa Drikung Kagyu của Phật giáo Tây Tạng. Ở Ấn Độ cổ xưa, Ngài đã tái sinh thành đại thành tựu giả Thánh Thiên (Aryadeva). Trong thế kỷ Bảy, Ngài nổi danh là Lonpo Gar, vị thượng thư của Vua Pháp Songtsen Gampo của Tây Tạng.

[2] Theo Rigpawiki, Khenpo Munsel (1916-1993) – một đệ tử của Khenpo Ngawang Palzang [tức Khenpo Ngakchung], Ngài bị [chính quyền] Trung Hoa giam giữ trong nhiều năm; trong khoảng thời gian ấy, Ngài đã ban những giáo lý Đại Viên Mãn Dzogchen, chẳng hạn Yeshe Lama và Choying Dzod, cho nhiều vị Lama khác trong tù, bao gồm Adeu Rinpoche và Garchen Rinpoche.

[3] Theo Rigpawiki, Trulshik Adeu Rinpoche, cũng được biết đến là Druprik Khyuchok hay Drupchok Rinpoche (1931-2007) là một đạo sư Drukpa Kagyu quan trọng từ Tu viện Tsechu, Nangchen. Giống như Tulku Urgyen Rinpoche, Ngài là đệ tử của Đức Samten Gyatso (1881-1945/6). Ngài là vị thầy chính yếu của Tsoknyi Rinpoche.

[4] Theo Rigpawiki, Dodrupchen Rigdzin Tenpe Gyaltsen hay Dodrupchen Tulku Rigdzin Jalu Dorje (1927-1961) được Amdo Geshe công nhận là một Tulku của Đức Dodrupchen thứ Ba. Có hai hóa thân chính yếu; vị còn lại – Ngài Thubten Trinle Palzang (sinh năm 1927) hiện đang sống ở Gangtok, Sikkim, Ấn Độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26346)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12724)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29489)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27692)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25884)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 14968)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16201)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22683)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14542)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12603)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18886)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14711)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43837)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47448)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13641)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14552)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12515)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40364)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43390)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14396)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14118)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39650)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13816)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37266)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40007)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13770)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37191)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11733)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22502)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12464)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12527)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 12998)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14790)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12406)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11927)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11901)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12352)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30630)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31826)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35354)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27755)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11427)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31659)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 26996)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24087)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30832)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27036)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28032)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23202)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23526)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21504)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26206)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 12998)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21842)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14084)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37948)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32044)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28504)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19574)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7289)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant