Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cuộc Đời Khandro Pema Dechen

24 Tháng Mười Hai 201918:34(Xem: 2734)
Cuộc Đời Khandro Pema Dechen

Cuộc Đời Khandro Pema Dechen

Tulku Thogmed biên soạn
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

 
hoa sen


Om Svasti!

Từ bản tính trọn vẹn của trạng thái nguyên sơ tràn khắp,

Sắc thân của tính Khônggiác tính hợp nhất không gián đoạn,

Mẹ của các hoạt động tâm linh của chúa tể ba thời,

Không Hành Nữ tôn kính hiển bày rộng khắp – dưới gót sen Bà, con phụng sự.

Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà. Cáo phó này là nỗ lực khiêm nhường trong việc trình bày vài thông tin về cuộc đời tâm linh của Mẹ linh thiêng quá cố.

Khandro Rinpoche sinh ra ở Brula, trong tỉnh Kongpo thuộc miền Đông Tây Tạng, trong gia đình luật gia cao quý Dekyi Khangsar vào năm Thủy Hợi Cái của chu kỳ 60 năm thứ 15 (tức năm 1923). Bà được đặt tên là Pema Dechen [Liên Hoa Đại Lạc]. Từ thuở nhỏ, Bà đã hiển bày những dấu hiệu vị tha cao quý, chẳng hạn như nhân từ và bi mẫn, cùng với niềm tin không dao động dành cho Ogyen Rinpoche[1] và chư vị thành tựu giả Trì Minh. Không giống những đứa bé khác, khi chơi đùa như một đứa trẻ, Bà thường ngồi trong tư thế kiết giàgiả bộ thiền định, trì tụng, dâng cúng dường nghi lễ, v.v. điều đánh thức những khuynh hướng thiêng liêng.

Khoảng năm lên sáu, Bà học các môn đọc, viết và học thuộc bản văn với cha. Trong giai đoạn này, Bà giúp đỡ gia đìnhhoàn thành thành công các trách nhiệm thế gian tương tự.

Mười ba tuổi, nhận thấy rằng lời hồi đáp cho những lời cầu nguyệnmong ước của bản thân đã xuất hiện, Bà trở thành vị phối ngẫu tâm linh của đạo sư Đại Viên Mãn vĩ đại – Trulshik Rinpoche Pawo Dorje (1897-1962)[2] từ Kham Minyak, miền Đông Tây Tạng. Kể từ đó, nhờ ba cách thức làm hài lòng (kính trọng, đồ ăn và thành tựu thiền định) và sự nương tựa lâu dài, Bà thọ nhận những quán đỉnh, khẩu truyềnchỉ dẫn bí mật của sự trao truyền, kho tàng và giáo lý linh kiến thanh tịnh trong trường phái Nyingma từ Trulshik Rinpoche, Kyabje Dudjom Rinpoche (1904-1987)[3], Kyabje Dodrupchen Rinpoche (sinh năm 1927)[4], v.v. Đặc biệt, Bà đã tiến hành khoảng 18 lần sự tích lũy và tịnh hóa của các thực hành sơ khởi (Ngondro) năm trăm nghìn theo giáo lý ‘Ter-sar’ [Kho Tàng Mới] sâu xa của vị phát lộ kho tàng vĩ đại Khragthung Dudjom Lingpa[5]. Người ta tin rằng nhờ sự tiến hành đúng đắn thực hành thiền định dựa trên tập hội Đạo Sư, Bổn Tôn và Không Hành Nữ (ba ‘gốc’ của thực hành Kim Cương thừa: Đạo Sư là gốc rễ của ân phước gia trì; Bổn Tôn Yidam là gốc rễ của các thành tựu; và Không Hành Nữ là gốc rễ của các hoạt động), Bà đạt chứng ngộtrải qua nhiều dấu hiệu thành tựu.

Cùng với Trulshik Rinpoche, Bà du hành đến nhiều địa điểm thiền định, ẩn thất và trung tâm nhập thất trên núi ở Tây Tạng, Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Sikkim, v.v. và thực hành thiền địnhchịu đựng thời tiết nóng, lạnh và nhiều khó khăn, chỉ có rất ít thức ăn, quần áo và nơi cư ngụ – khi ấy, Bà đã có những linh kiến về chư Bổn tôn cùng nhiều giấc mơ diệu kỳ và linh kiến thanh tịnh. Thông thường, ngay khi đến địa điểm mà Bà sẽ ngủ lại buổi tối, thay vì thư giãn, Bà lập tức bắt đầu tiến hành một trăm lễ lạy và chỉ khi hoàn tất thì Bà mới chuẩn bị bữa ăn – điều rõ ràng cho thấy sự tham gia tích cực vào các hoạt động tâm linh.

Khi Bà đang tập trung vào thiền định ở phía trên khu rừng Kongpo, một chú khỉ đã đến vài lần, mang theo bơ, trà và thịt để phục vụ. Nghĩ rằng, ‘Nếu tôi còn ở lại đây thêm nữa, sẽ chỉ có thêm tội lỗi’, Bà phải di chuyển đến nơi khác. Sự thật rằng thậm chí những tinh linh địa phương phi nhân cũng muốn giúp đỡ và kính trọng Bà cũng là bằng chứng cho thấy phẩm tính linh thiêng của Bà.

Ngày nọ, khi đang cầu nguyệnđi nhiễu quanh tòa tháp chín tầng mà Tổ Milarepa đã xây dựng ở Lodrag Kharchu, địa điểm vô cùng linh thiêng của Guru Rinpoche, Bà gặp một Yogi với tóc dài đến gối, đeo dây thiền địnhđắp y trắng, cầm bát gỗ. Ngay khi hoàn tất một vòng khác, Bà nhìn kỹ lại chỗ ấy, nhưng thấy rằng vị Yogi đã biến mất. Băn khoăn đó là ai, Bà hỏi đạo sư, vị đáp rằng, “Chao ôi! Con đã gặp Milarepa thực sự”.

Trong chuyến hành hương đến miền Nam Ấn Độ, ở Sri Parvata, địa điểm nơi Tổ Long Thọ sống những ngày cuối đời, Bà thấy một xác người mà đầu đã lìa khỏi thân. Sau đấy, khi Bà thuật lại điều này cho Lama Trulshik Rinpoche, Ngài quở trách vì Bà không biết rằng Bà đã gặp được thân thể thực sự của Thánh Long Thọ.

Một hôm, trong chuyến hành hương đến Nepal cùng với các bạn hành hương, Bà cảm thấy ai đó chạm vào từ đằng sau. Khi quay lại, Bà thấy một cô gái Ấn Độ trẻ đang cầm sọ người, cầu xin. Bà cho cô ấy ít tiền, nhưng băn khoăn, “Đó có thể là ai được chứ?”. Sau này, khi Bà kể lại cho Kyabje Dudjom Rinpoche, Bà hiểu rằng Hợi Mẫu Kim Cương [Vajravarahi] đã xuất hiện trước Bà trong hình tướng một người ăn xin.

Một sự kiện diệu kỳ khác xảy ra trong chuyến viếng thăm đến Bảo tháp Đại Tịnh (nơi Đức Phật đã xuống tóc) ở Ấn Độ, khi mà ba quả cam bỗng nhiên rơi từ trên trời xuống bàn tay Bà. Cực kỳ ngạc nhiên, Bà cầm chúng và cho Kyabje Dudjom Rinpoche xem, vị giữ lại một và yêu cầumang theo hai quả còn lại. Thậm chí sau khi Bà giữ chúng trong một thời gian dài, chúng cũng không hỏng hay bị thối.

Bà đã du hành cùng với Trulshik Rinpoche đến địa điểm linh thiêng ở Mon Tawang (Arunachal Pradesh, Ấn Độ), nơi Guru Rinpoche tham gia vào các thực hành thiền định và khi họ đang tiến hành thực hành thiền định riêng biệt tại chính nơi đó, Bà nghe thấy tiếng vỡ lớn. Tự hỏi đó là âm thanh gì, Bà nhìn lên và thấy núi đá bất ngờ mở ra như một cánh cửa. Sợ rằng nếu trần sụp xuống, nó sẽ đổ vào người; Bà lập tức chạy ra ngoài và hỏi đạo sư, vị đáp lại bằng cách giơ ngón cái (điều nghĩa là ‘tốt’) và nói, “Ồ! Thật tiếc, nó đáng lẽ có thể như vậy,” và sau đó lại giơ ngón út (điều nghĩa là ‘không tốt’) và nói, “Nhưng nó đã như vậy”.

Sau đấy, trong năm Hỏa Tuất Đực của chu kỳ 60 năm thứ 16 (1946), hai vị đã du hành từ Tingri (một quận ở phía Nam Tây Tạng) đến Gangtok qua Choten Nyima (một hạt của quận Gampa ở phía Tây Tây Tạng tiếp giáp Sikkim) và Lachung, miền Bắc Sikkim. Bởi sức mạnh của nghiệp từ các mối liên hệ tâm linh sâu sắc trong những đời quá khứ, [Đức vua] Chogyal Tashi Namgyal và Thái tử Palden Thondup Namgyal của Sikkim, với niềm tin không dao động, đã trở thành những thí chủ của Trulshik Rinpoche và xem Rinpoche là người đứng đầu của Giáo hội. Đặc biệt, Trulshik Rinpoche và Khandro-la, đúng theo ý định vô song của Chogyal và Thái tử, đã chấp nhận trách nhiệm chính yếu trong việc hướng dẫn Chogyal xây dựng Dudul Choten hiện tại ở Deorali, Gangtok, xem đây là phạm vi phước báu nhất để tích lũy công đức và tịnh hóa che chướng cho mọi chúng sinh.

Như thế, khi đã hoàn thành các mong ước của Chogyal, Rinpoche và Khandro-la đến thung lung ẩn mật Pema Kod (quận phía Đông Nam của Tây Tạng) và đến Kongpo, nơi một lần nữa, Thái tử lại gửi những sứ giả đến thỉnh mời họ, nhưng họ không thể đi. Sau đấy, Thái tử đích thân đi cùng với những người hầu cận và thuyết phục Rinpoche cùng Khandro-la, người mà, đồng ý với lời mời, đã đến Gangtok.

Sau đó, trong năm Hỏa Dậu Cái của chu kỳ 60 năm thứ 16 (1957), Chogyal khẩn cầu Rinpoche và Khandro-la mãi mãi lưu lại Deorali Choten. Ban đầu, khu nhà cũ – hiện nay ở sân trước – được xây dựng. Đích thân Chogyal đứng đầu trong việc cung cấp mọi tiện nghi, chẳng hạn lương hàng tháng, các bữa ăn, quần áo, đầy tớ và củi đốt.

Xét đến những lợi lạc cho thế hệ sau, Trulshik Rinpoche cuối cùng thỉnh mời đạo sư của truyền thống Longchen Nyingtik[6] (những giáo lý sâu xa bí mật) cũng là vị thầy tiền định của cuộc đời chúng ta, Đức Jigme Thupten Trinle Palzang – thường được biết đến là Kyabje Dodrupchen Rinpoche – đến Choten, nơi mà, tại nơi hiện nay là khu nhà cũ của Ngài, một đại lễ được sắp xếp và Ngài được tấn phong. Trulshik Rinpoche cầu nguyện rằng Ngài sống tại Choten và cầu khẩn Ngài thành lập một trung tâm nghiên cứu Phật giáo. Sau khi hướng dẫn Chogyal trao sự bảo trợ hoàng giavinh dự cho Kyabje Dodrupchen Rinpoche như là người đứng đầu của Giáo hội, Trulshik Rinpoche, đã bước sang tuổi 66, an nhiên viên tịch vào năm 1962 (63?), với vô số dấu hiệu diệu kỳ.

Nhờ sức mạnh của sự quan tâm và nguyện ước sâu xa, trong quá khứ, của cha và con tâm linh toàn tri (tức Tôn giả Longchenpa và Tổ Jigme Lingpa[7]), 25 đệ tử hóa hiện linh thiêng của Đức Liên Hoa Sinh, Khenlob Chosum (Bồ Tát Tịch Hộ, Đạo Sư Liên Hoa Sinh và Chogyal Trisong Deutsen – vua của Tây Tạng), v.v. và đặc biệt nhờ sức mạnh của lời nguyện ước đúng lúc, sự giao phóthọ ký của Đại Sư Ogyen, Kyabje Dodrupchen Rinpoche đã thành lập học viện Nyingma vĩ đại của Dzogchen Longchen Nyingtik. Kể từ đó, số lượng tu sĩ ngày càng tăng thêm mỗi năm.

Trong khi đó, Khandro-la, vì lợi ích của hữu tình chúng sinh, đã dấn thân vào việc thu thập ‘ba đối tượng’ (tôn tượng, kinh văn và bảo tháp) và các Pháp khí khác nhau cần cho Tu viện. Cho đến những ngày cuối đời, Bà đã tích cực tham gia như là vị thí chủ chính yếu cho mọi lễ kỷ niệm tâm linh cát tường, chẳng hạn Tsechu [kỷ niệm mùng 10 Âm lịch hàng tháng], Nyernga [kỷ niệm ngày 25 Âm lịch hàng tháng], bốn dịp quan trọng của Đức Phật[8], an cư kiết hạPháp hội Đại Thành Tựu (Drupchen) về Phổ Ba – Phurba Gyuluk, điều thường được cử hành vào cuối mỗi năm.

Tình yêu thươnglòng từ bao la của Khandro-la dành cho tất cả chúng ta thật chẳng thể đo lường. Bằng sự ấm áp và yêu thương, Bà đón nhận tất cả tín đồ từ bên ngoài, những vị đến thọ nhận sự gia trì của Rinpoche và sẵn sàng trao cho họ mọi giúp đỡ và hỗ trợ có thể, chẳng hạn thức ăn, nơi ở, v.v. Vô cùng hoan hỷhài lòng trước sự khiêm nhường và tình yêu thương vô bờ bến của Bà, thậm chí những tín đồ giàu có cũng bị thu hút như những con thiên nga với một hồ nước.

liên tục đưa vào thực hành giáo lý Tersar Khandro Thugthig[9] thù thắng, điều mà Bà đã thọ nhận từ Kyabje Dudjom Rinpoche, không bỏ qua dù chỉ một ngày và được bổ nhiệm là vị trông giữ những giáo lý này bởi chính Kyabje Rinpoche. Nhiều lần, trong lúc hành trì, Bà được ban phước bởi những linh kiến về Ogyen Rinpoche, chư Bổn tôn và Hộ Pháp, chẳng hạn Masa Damsum và Nodzin Chiumar, những vị đã đồng hành cùng Bà và trao cho Bà những điềm báo tốt và xấu. Sau đấy, Bà hướng dẫn các đệ tử tu sĩ tiến hành một lời cầu nguyện vì Rinpoche, thậm chí quả quyết rằng nếu lời cầu nguyện được cử hành bởi toàn bộ Tu viện, sẽ có lợi lạc trong hiện tại cũng như tương lai cho mọi người. Chỉ đơn thuần thái độ này của Khandro-la đã cho thấy rằng Bà vượt khỏi bản tính của những người bình phàm.

Như thế, trong quá trình [tiến hành] mọi hoạt động tâm linh bên ngoài, bên trong và bí mật, Khandro-la sẵn lòng hiển bày là một vị phối ngẫu tâm linh để giúp đỡ Kyabje Dodrupchen Rinpoche vì lợi ích của giáo lý Phật Đà quý báu về kinh văn và chứng ngộ.

Trong tháng Ba Âm lịch năm 2006, khi đang nghỉ ngơi trên giường, Bà bỗng chìm vào một giấc ngủ ngắn và ngay trước khi thức giấc, Bà nằm mơ rằng một cô gái trẻ xuất hiện phía trước, đội mũ sáng ngời với các biểu tượng của Ngũ Trí Như Lai, người hỏi tuổi của Bà. Khandro-la đáp rằng Bà 84 và cô ấy nói, “Giờ đã đến lúc Bà phải ra đi”. Khi Khandro-la nói rằng Bà không muốn đi, cô gái khẩn nài, nói rằng, “Không, không, năm nay Bà phải đi”. Sau đó, Khandro-la kể lại toàn bộ sự việc này cho các thị giả thân cận.

Kể từ thời điểm nhận được dấu hiệu cung nghênh từ Không Hành Nữ, Khandro-la nằm liệt giường bởi một căn bệnh khiến Bà khó thở – một bất hạnh cho tất cả hữu tình chúng sinh nói chung và đặc biệt với chúng ta, những đệ tử của Bà. Mặc dù các môn đồ sùng kính thỉnh cầu được đưa Bà đến bệnh viện, Bà từ chối. “Ta không muốn đến bệnh viện,” Bà nói. “Về bất kỳ sự chữa trị nào cần thiết, bác sĩ cần được mời đến đây”. Chẳng bao giờ có dấu hiệu của mùi hôi từ thân thể của Bà, ngay cả vào đêm Bà qua đời. Bao quanh bởi tất cả các thị giả, với một nụ cười, Bà cất lên những dòng sau đây từ bản văn Pema Kathang[10] với giọng du dương:

Ôm trọn năm thân Phật, chân lý tự sinh;

Bằng các phương tiện thiện xảo khác nhau, đưa hữu tình chúng sinh vào sự an trú hỷ lạc;

Hoàn toàn đáp ứng những mong ước của các chúng sinh có thể được rèn luyện;

Trước Kim Cương Thân (phẩm tính bất biến của Phật tính),

vượt khỏi sinh và tử (tức Guru Rinpoche), con kính lễ!

Cuối cùng, vào sáng ngày 12 tháng 8 năm Hỏa Tuất Đực của chu kỳ 60 năm thứ 17 (tức ngày 5 tháng 9 năm 2006), Khandro-la tiếp đón những vị khách, phát dây gia hộ, gia trì cho các loại thuốc và thánh hóa hương và với sự thích thú, trao khăn lụa cho từng người, đặc biệt là các thí chủ viếng thăm. Sau đấy, lúc 12h30, tình trạng của Bà bất ngờ trở nên xấu hơn và Bà qua đời, nhập vào phạm vi của hỷ lạc vĩnh cửu.

Lúc ấy, Rinpoche và Lopon Kunzang Thekchok Yeshe Dorje[11], cùng với các Lama tái sinh khác, đã nhẹ nhàng tụng đọc một biến Tagdrol (Giải Thoát Nhờ Đeo Đồ Hình Linh Thiêng) của truyền thống Longchen Nyingtik và Choying Dzod (Kho Tàng Pháp Giới – một trong Bảy Kho Tàng của Tôn giả Longchenpa).

Trong bảy ngày, thân vật lý của Bà duy trì trong thiền định. Vào ngày thứ tám, khi dấu hiệu xả thiền xuất hiện, các chất liệu như long não, những loại thuốc khác nhau và nước thơm được đặt lên thân thể và chư vị Lama tái sinh cùng những tu sĩ cao cấp tiến hành lễ tịnh hóa bằng nước được gia trì nhờ trì tụng bản văn Shitro Ngansong [Trăm Bổn Tôn An BìnhPhẫn Nộ] của truyền thống Longchen Nyingtik. Các chủng tự linh thiêng được đặt vào mỗi nơi linh thiêng trên thân. Sau đấy, thân quý báu được bọc trong cốt-tông trắng thơm và lụa tốt, được trang hoàng giống như Báo thân Phật, cầm chày và chuông và giữ trên giường trong 20 ngày. Tất cả những chất cúng dường cần thiết được sắp xếp phía trước. Lúc ấy, vô số tín đồ nam và nữ từ khắp nơi tới đỉnh lễ để thọ nhận sự gia trì cuối cùng. Các tín đồ cực kỳ kinh ngạcniềm tin sâu xa khởi lên trong họ khi họ chứng kiến điều đó, ngay cả giữa cái nóng mùa hè và không có sự hỗ trợ của bất kỳ chất bảo quan y học nào, thân thể của Bà chẳng hề thối rữa.

Vào ngày 25 tháng 9, dưới sự bảo hộ của Chính phủ Sikkim, một đám đông những tín đồ nam và nữ đã đưa nhục thân đến Tashi Ding, trung tâm của vùng đất ẩn mật này, trong một đoàn rước đám tang hoành tráng. Vào ngày 26, tại Silwatshal, nghĩa địa linh thiêng, phía Tây Nam của Tashi Ding, nơi đã được Guru Rinpoche gia trì, giữa một đám đông hơn 5000 tín đồthí chủ nam – nữ, lễ tang dựa trên nghi lễ Mandala Kim Cương Tát Đỏa Dorsem Ngonga của truyền thống Longchen Nyingtik được dẫn dắt bởi Đạo Sư Kim Cương Yangthang Rinpoche[12] – vị tái sinh của Domang Terchen và nghi lễ về Mandala Quan Âm Thugchen Dukngal Rangdrol của truyền thống Longchen Nyingtik được dẫn dắt bởi Gonjang Rinpoche Tsang Tingkey, khi mà lễ trà tỳ diễn ra.

Ngay phía trên căn phòng lưu giữ nhục thân, cầu vồng xuất hiện, cùng với những đám mây màu cầu vồng, tràn ngập bầu trời và cuối cùng, nhiều xá lợi, v.v. xuất hiện, như thế, đáp ứng ba đặc tính cao nhất của Đại Viên Mãn trong trường phái Nyingma: nền tảng, con đường và kết quả (nền tảng là sự xác quyết tri kiến; con đườngthực hành thiền định và kết quả là thành tựu giác ngộ). Những người vân tập ở đó để tham dự tang lễ cuối cùng đều vô cùng kinh ngạcniềm tin xác quyết khiến họ rớt nước mắt. Cuối cùng, trong giai đoạn 49 ngày, các đệ tử này, những vị bị bỏ lại đằng sau, đã hoàn thành các mong ước của họ về việc dâng cúng dườnghoàn tất những nghi lễ một cách trọn vẹn.

Bản tường thuật này về Khandro-la quá cố được viết bởi Tulku Thogmed – người sinh ra làm vị trông nom để giải thích những giáo lý của cha và con tâm linh toàn tri (Tôn giả Longchen Rabjam và Tổ Jigme Lingpa) và người sống dưới sự chăm sóc của đạo sư từ ái, lịch thiệp – Đức Dodrupchen Rinpoche thứ 4 của Tu viện Sangchen Ngodrub Palbarling Choten tại Gangtok – trong tháng Năm năm Hỏa Hợi của chu kỳ 60 năm thứ 17 (tức năm 2007) vào ngày 25 cát tường kỷ niệm Tập Hội Không Hành Nữ.

Tenzin Samphel và Carl Yamamoto chuyển dịch Anh ngữ.

 

Nguồn Anh ngữ: https://theyoginiproject.org/wisdom-dakinis/khandro-pema-dechen.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Tức Guru Rinpoche – Đạo Sư Liên Hoa Sinh.

[2] Theo Rigpawiki, Trulshik Rinpoche Kunzang Pawo Dorje (1897-1962) – hóa hiện của Tổ Melong Dorje và Lhodrak Drupchen. Ngài đến từ Minyak. Ngài là một trong những đệ tử chính yếu của Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro và sau đó là của Dudjom Rinpoche. Ngài dành nhiều thời gian ở Kongpo và sau đấy sống tại Sikkim, nơi Ngài đã viên tịch. Vị phối ngẫu tâm linh của Ngài, Khandro Pema Dechen, sau đó trở thành vị phối ngẫu của Dodrupchen Rinpoche.

Ngài là đạo sư của Thái tử Sikkim – Palden Thondup Namgyal, người sau đó trở thành Vua. Các học trò khác của Ngài bao gồm Dhongthog Rinpoche và Tulku Thondup. Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro đã biên soạn nhiều tác phẩm theo thỉnh cầu của Ngài, đặc biệt về thực hành Sư Tử Diện Phật Mẫu Senge Dongma.

[3] Theo Rigpawiki, Kyabje Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe Dorje (1904 – 1987) là một trong những Yogi, học giảđạo sư thiền định lỗi lạc của Tây Tạng. Ngài được công nhậnhóa thân của Đức Dudjom Lingpa (1835 – 1904), vị mà các hóa thân đời trước gồm có những đạo sư, Yogi và học giả vĩ đại nhất như Tôn Giả Shariputra [Xá Lợi Phất], Saraha và Khye’u Chung Lotsawa. Được coi là đại diện của Đức Liên Hoa Sinh, Ngài là một vị phát lộ “kho tàng” (Terma) được chôn giấu bởi Đại Sư Liên Hoa Sinh. Là một tác giả lớn và một học giả cẩn trọng, Dudjom Rinpoche biên soạn hơn 40 cuốn, trong đó nổi tiếng nhất là tác phẩm đồ sộ “Những Nguyên Tắc Và Lịch Sử Của Truyền Thống Nyingma”. Trong mười năm cuối đời, Ngài dành nhiều thời gian giảng dạy ở phương Tây, nơi Ngài giúp đỡ thiết lập truyền thống Nyingma, thành lập các trung tâm quan trọng ở Pháp và Hoa Kỳ.

[4] Theo Rigpawiki, Kyabje Dodrupchen Rinpoche – Dodrupchen Rinpoche thứ tư – Tubten Trinle Pal Zangpo hay Đức Jigme Trinle Palbar (sinh năm 1927) là một trong những vị đạo sư quan trọng nhất còn trụ thế của truyền thống Nyingma và Dzogchen. Là vị tái sinh thứ 4 của Tổ Dodrupchen Jigme Trinle Ozer – tâm tử của Tôn giả Jigme Lingpa, người đã phát lộ pho Longchen Nyingtik, Dodrupchen Rinpoche là vị trì giữ chính yếu các giáo lý Longchen Nyingtik.

[5] Theo Rigpawiki, Tổ Dudjom Lingpa tức Chakong Terton (1835-1904) là đạo sư Nyingma và Terton vĩ đại, người mà các phát lộ tạo thành hai mươi quyển. Ngài được xem là hóa hiện của Khye’u Chung Lotsawa, một trong hai mươi lăm đệ tử của Guru Rinpoche. Hóa thân tức thì của Ngài, thậm chí sinh ra trước khi bản thân Ngài qua đời, là Dudjom Rinpoche.

[6] Về truyền thống Longchen Nyingtik, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a31844/gioi-thieu-ve-tam-yeu-cua-coi-gioi-bao-la/.

[7] Về Tổ Jigme Lingpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a31755/cau-chuyen-cuoc-doi-to-jigme-lingpa.

[8] Bốn sự kiện Phật giáo quan trọng hay bốn đại lễ liên quan đến cuộc đời của Phật Thích Ca Mâu Ni. Vào những ngày này, kết quả của thiện hay ác hạnh được nhân lên nhiều lần. Chúng gồm:

- Chotrul Duchen – Kỷ niệm Phật thị hiện thần thông.

- Saga Dawa Duchen – Kỷ niệm Phật Đản.

- Chokhor Duchen – Kỷ niệm Phật chuyển Pháp luân.

- Lhabab Duchen – Kỷ niệm Phật trở về từ cõi trời.

[9] Theo Rigpawiki, Khandro Thugthig – Tinh Túy Tâm Tủy Không Hành Nữ tức Kho Tàng Thành TựuThực Hành Con Đường Sâu Xa Của Không Hành Nữ [Yeshe Tsogyal] là một pho giáo lý Terma của Dudjom Rinpoche, được phát lộ như là Gongter [Terma tâm] vào năm 1928. Đây là thực hành Dakini chính yếu trong truyền thừa Dudjom Tersar và là một trong bốn pho Terma chính của Dudjom Rinpoche.

Khandro Thugthig là một thực hành Dakini tập trung vào Yeshe Tsogyal. Hình tướng bên ngoài là Yeshe Tsogyal, hình tướng bên trong là Kurukulle – Tác Minh Phật Mẫu, hình tướng bí mật là Senge Dongma – Sư Tử Diện Phật Mẫuhình tướng bí mật nhất là Troma Nagmo.

[10] Theo Rigpawiki, Pema Kathang – Biên Niên Sử Liên Hoa – một tiểu sử của Guru Rinpoche, cũng được biết đến là Sheldrakma, do Orgyen Lingpa phát lộ từ Động Pha Lê. Tiểu sử này gồm 108 chương.

[11] Theo Rigpawiki, Lopon Thekchok Yeshe Dorje (sinh năm 1957) từ Bhutan là một đệ tử của Kyabje Dodrupchen Rinpoche thứ 4 – Tubten Trinle Pal Zangpo. Ngài là tác giả của nhiều luận giải, bao gồm một luận giải về Pháp tu Ngondro [theo truyền thống] Longchen Nyingtik và một luận giải về bản văn Khenjuk của Mipham Rinpoche.

[12] Theo Rigpawiki, Domang Yangthang Rinpoche hay Đại Sư Kunzang Jigme Dechen Osal Dorje (1929 2016) là vị đạo sư Nyingma nổi tiếng từ vùng Yangthang, người có kết nối với Tu viện Domang, một nhánh của truyền thống Palyul ở miền Đông Tây Tạng.

Rinpoche chào đời vào ngày 10 tháng 11 năm Thổ Tỵ (1929) ở Yangthang miền Tây Sikkim. Cha của Ngài ông Pema Drodul đến từ [Tu viện] Dzogchen ở miền Đông Tây Tạng và mẹ của Ngài là bà Tenzin Chodron, con gái của Yangthang Ating từ gia đình Oyuk Drakar. Ngay từ khi còn nhỏ, với nhiều dấu hiệu diệu kỳ, Ngài đã được công nhận là một trong hai hóa thân của Terton Dorje Dechen Lingpa của Tu viện Domang ở miền Đông Tây Tạng, vị này lại là hóa thân của Tổ Lhatsun Namkha Jigme.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 273)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 276)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 377)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 752)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 734)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 849)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 820)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1119)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1343)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1136)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2434)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1831)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3529)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1660)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2596)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2366)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2019)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2975)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2062)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2394)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1822)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1712)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2449)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1525)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2826)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1873)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3804)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2129)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1970)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2520)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4499)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1931)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2828)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1656)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2557)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2644)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2039)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3623)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3080)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2007)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2054)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2382)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2079)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1920)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2463)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2138)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2163)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2577)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3655)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2231)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3334)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3008)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5279)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2626)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3911)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5329)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3865)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2789)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2521)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 3713)
Với những vị nhấn mạnh duy nhất vào việc trưởng dưỡng Bồ đề tâm trong cuộc đời, lời khuyên thích hợp cho họ khi tiến gần đến cái chết là nương tựa năm sức mạnh để định hướng lối đi của họ đến đời sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant