Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lịch Sử Nhập Thất Mùa Đông Và Các Vấn Đề Liên Quan Khác Của Tu Viện Lungngon

Tuesday, January 28, 202017:55(View: 2860)
Lịch Sử Nhập Thất Mùa Đông Và Các Vấn Đề Liên Quan Khác Của Tu Viện Lungngon

LỊCH SỬ NHẬP THẤT MÙA ĐÔNG
VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN KHÁC CỦA TU VIỆN LUNGNGON

Hungkar Dorje Rinpoche soạn
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

Tu Viện Lungngon

 

Các anh chị em đạo hữu thân mến,

Tôi tin rằng các bạn đều hoan hỷan bình như mong đợi. Tôi đáng lẽ phải viết về Nhập Thất Mùa Đông của chúng tôi sớm hơn vào năm nay, nhưng bây giờ thì tôi mới viết. Dẫu vậy, sau một hay hai tháng nữa thì cũng vẫn là sớm với tôi, bởi Nhập Thất Mùa Đông sẽ tiếp tục diễn ra hàng năm trong nhiều năm tới. Tôi đã thông báo các khóa nhập thất năm nay: Tác Minh Phật Mẫu (Kurukulle), Sư Tử Diện Phật Mẫu và Guru Rinpoche – tất cả các thực hành để xua tan chướng ngại, tăng trưởng hoạt động Giáo Pháp và phát triển kinh nghiệm của các hành giả.

Mục đích chính yếu của sự khởi lên phụ thuộc của Tác Minh Phật Mẫu là để bảo vệ Giáo Pháp trong thời đại suy đồi như vậy; vì thế, thực hành nhóm là vô cùng quan trọng bởi nó mạnh mẽ hơn nhiều so với sự hành trì cá nhân.

Mật điển Simhamukha – Sư Tử Diện Phật Mẫu ban đầu được Phật Thích Ca Mâu Ni phát lộ để bảo vệ khỏi ảnh hưởng gây hại của lời nguyền. Về sau, trong thời của Guru Rinpoche, khi những hành giả ngoại đạo sử dụng sức mạnh để tấn công Giáo Pháp và các hành giả Phật giáo, hành giả Phật giáo đã thỉnh cầu Guru Rinpoche bảo vệ họ khỏi những tà sư này. Guru Rinpoche đã phát lộ các thực hành Mật điển Sư Tử Diện Phật Mẫu để bảo vệ họ. Về mặt lịch sử, người ta nói rằng nhờ thực hành phẫn nộ về Sư Tử Diện Phật Mẫu, 500 vị thầy ngoại đạo gây chướng mạnh mẽ đã bị sét đánh chết.

Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche. Mục đích của việc Đức Phật trở lại là Guru Rinpoche là để hoằng dương Phật giáo thêm nữa và đặc biệt là để truyền bá truyền thống Mật điển. Mặc dù Guru Rinpoche là hóa hiện của Đức Phậtsở hữu trí tuệ tự nhiên, nội tại, Ngài vẫn trải qua tất cả những nghiên cứu với vô số đạo sư. Ngài từ bỏ vương quốc, nơi Ngài là Hoàng tử xứ Oddiyana và đến các nghĩa địa và núi non để thực hành Giáo Pháp.

Guru Rinpoche đã tu học với nhiều đạo sư vĩ đại, chẳng hạn Đức Manjushrimitra [Văn Thù Hữu] – người dạy Ngài chư vị an bìnhphẫn nộ của Văn Thù Sư Lợi. Ngài tu học với Đức Shri Singha, vị dạy Ngài Dzogpa Chenpo – Đại Viên Mãn. Đức Vimalamitra [Vô Cấu Hữu] dạy Ngài chư vị an bìnhphẫn nộ của truyền thừa Cam Lồ Amrita. Ngài đã nghiên cứu chư vị an bìnhphẫn nộ của truyền thừa Liên Hoa với Đức Nagarjuna [Long Thọ]. Ngài cũng nghiên cứu chư vị an bìnhphẫn nộ của Tám Nghi Quỹ với Không Hành Nữ Karma Indranila. Guru Rinpoche có tám đạo sư vĩ đại. Ngài đã nghiên cứu các thực hành và cấp độ Mật điển khác nhau, mặc dù thực hành chính yếu của Ngài là Dzogpa Chenpo và các phát lộ kho tàng.

Guru Rinpoche đã hoàn thành bốn cấp độ thực hành Trì Minh Vương [Vidyadhara]. Bốn cấp độ thực hành Trì Minh Vương này gồm: 1. Trì Minh Vương chín muồi རྣམ་སྨིན་རིག་འཛིན; 2. Trì Minh Vương làm chủ thọ mạng ཚེ་དབང་རིག་འཛིན; 3. Trì Minh Vương Đại Ấn ཕྱག་ཆེན་རིག་འཛིན và 4. Trì Minh Vương tự nhiên hiện hữu ལྷུན་གྲུབ་རིག་འཛིན. Điều này nghĩa là Guru Rinpoche đã thành tựu những cấp độ chứng ngộ cao nhất trong cả con đường Kinh thừa và Mật thừa. Guru Rinpoche đã thực hành tám Bổn tôn, chẳng hạn Phổ Ba Kim Cương (Vajra Kilaya), Đại Oai Đức Kim Cương (Yamantaka), Sư Tử Diện Phật Mẫu, v.v. Bởi những thành tựu cao cấp, sự chứng ngộhoạt động lớn lao, Guru Rinpoche nổi tiếngẤn Độ là “Mặt trời và mọi vì tinh tú” và trở thành một đạo sư vô cùng quan trọng trong lịch sử Phật giáoẤn Độ. Khi nghiệp và các nguyện ước hoàn toàn chín muồi, Guru Rinpoche đã đến Tây Tạng. Tinh túy của nguyện ước và nghiệp, điều dẫn dắt Guru Rinpoche đến Tây Tạng, là kết quả của những lời cầu nguyện từ các đệ tử vô cùng tinh tấn, chí thànhuyên bácTây Tạng, chẳng hạn Yeshe Tsogyal (757-817), Vairotsana (750-?), Trisong Detsen (740-798) và v.v. Nhờ lòng sùng mộ của họ, Guru Rinpoche đã ban những chỉ dẫn và kho tàng cho Tây Tạngthế gian. Bởi sức mạnh và lòng bi của Guru Rinpoche, Phật Pháp đã có thể lan tỏa khắp nơi ở Tây Tạng dù có nhiều chướng ngại. Không có Guru Rinpoche, sự cải đạo sang Phật giáo này ở Tây Tạng là điều không thể. Guru Rinpoche đã ban giáo lý về Tám Đàn Tràng của Tám Bổn Tôn, bao gồm Văn Thù Yamantaka, Mã Đầu Minh Vương (Hayagriva), Phổ Ba Kim Cương v.v. cho nhóm đệ tử đầu tiên của Ngài ở Tây Tạng. Nhóm hai mươi lăm đệ tử đầu tiên này, bao gồm Yeshe Tsogyal, Vairotsana, Trisong Detsen, v.v. đã đạt được thần thông vĩ đại và chứng ngộ cao.

Guru Rinpoche cũng thiết lập truyền thừa kho tàng [Terma] ở Tây Tạng. Truyền thừa kho tàng là một truyền thừa chân chính dựa trên Giáo Pháp thực sự. Nhờ phát lộ các giáo lý ẩn giấu của Guru Rinpoche, những giáo lý trở nên có sẵn vào thời điểm đặc biệt, điều duy trì sự tươi mới và sức mạnh cho giáo lý. Nhờ sức mạnh diệu kỳ, Guru Rinpoche chôn giấu các giáo lý này trong tâm của những vị phát lộ kho tàng, trong núi non và hồ nước hay tương tự, khắp nơi ở Tây Tạng. Sau khi những giáo lý kho tàng đã được chôn giấu, một hóa hiện của chính Guru Rinpoche hay của một trong những đệ tử chính yếu của Ngài, trở lại nơi chôn giấu giáo lý để phát lộ chúng. [Chẳng hạn Karma Lingpa là hóa thân của dịch giả và đệ tử của Guru Rinpoche – Lu’i Gyaltsen. Karma Lingpa (1326-1386) đã tìm ra hay phát lộ điều được biết ở phương Tây là Tử Thư Tây Tạng hay Giải Thoát Nhờ Lắng Nghe hay Shitro.] Truyền thừa kho tàng của Guru Rinpoche sẽ mãi mãi tiếp tục để làm lợi lạc cuộc đời, của cải, sự hành trì Giáo Pháp và môi trường của mọi người.

Bởi sức mạnh của những nguyện ước và lòng bi mẫn của Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài được biết đến là Bạch Liên Hoa trong bản văn “Nghìn Phật Hiền Kiếp”. Tương tự, bởi đại nguyện, trí tuệ và lòng bi, Guru Rinpoche được biết đến là Kim Cương Thượng Sư Bất Tử của Hiền Kiếp. Guru Rinpoche không bao giờ chết.

Tại sao Guru Rinpoche lại quan trọng và giá trị đến vậy trong thời kỳ đặc biệt này? Bởi Guru Rinpoche có nhiều sức mạnh hơn để làm lợi lạc chúng sinh trong những thời suy đồi này. Ngài đã có được sức mạnh đó nhờ hạnh tinh tấn, những chuẩn bị đặc biệt cùng với sự tích lũy độc đáo, vô song về công đứctrí tuệ. Do vậy, bất kỳ ai có kết nối nghiệp và/hoặc niềm tin với Guru Rinpoche đều vô cùng may mắn, bởi người bình phàm chẳng thể nào có được trí tuệ như vậy. Nhờ tài tiên tri hay sự thấu suốt diệu kỳ của mình, Guru Rinpoche có thể tiên đoán, trong thế kỷ tám, điều đang diễn ra ở Tây Tạng hiện nay và nhiều chuyện khác đang xảy ra ở phần còn lại của thế giới. Có rất nhiều, rất nhiều hóa hiện của Guru Rinpoche ở Tây Tạng, những vị đã ban hay đang ban giáo lý bao trùm các truyền thống Giáo Pháp nói chung, cho đến tận thực hành Mật điển cao nhất – Dzogpa Chenpo hay Đại Viên Mãn. Những đạo sư này bao gồm mười hai vị Lingpa, Longchenpa (1308-1363), Jigme Lingpa (1729-1798), Do Khyentse Yeshe Dorje (1800-1866), Jamyang Khyentse [Wangpo] (1820-1892) và Lama Sang Orgyen Kusum Lingpa (1934-2009). Tổ Do Khyentse Yeshe Dorje là hóa hiện về ý của Đức Jigme Lingpa, vị đã thành lập truyền thừa Longchen Nyingthig. Tổ Do Khyentse Yeshe Dorje đã thành lập Tu viện của chúng taTu viện Lung-ngon vào năm 1828.

Tinh túy của truyền thống Longchen Nyingthig là Dzogpa Chenpo dựa trên tuyển tập những giáo lý của Tôn giả Longchen Rabjam. Tôn giả Longchen Rabjam hay Longchenpa là vị tái sinh của một trong những vị phát lộ kho tàng vĩ đại – Padma Ledreltsal. Padma Ledreltsal phát lộ kho tàng Tâm Yếu Không Hành Nữ [Khandro Nyingthig]. Tác phẩm này là một giáo lý Dzogchen trực tiếp từ Guru Rinpoche đến Yeshe Tsogyal và được xem là một trong những giáo lý Dzogchen sâu xa nhất. Có hai giáo lý vô cùng quan trọng về Dzogchen, một là Tâm Yếu Không Hành Nữ do Padma Ledreltsal phát lộ và một là Tâm Yếu Vô Cấu Hữu [Vima Nyingthig]. Tôn giả Longchenpa có linh kiến trực tiếp về Đức Vimalamitra; trong đó, Đức Vimalamitra đã dạy Ngài giáo lý Tâm Yếu của Tổ. Hai giáo lý này của Padma Ledreltsal và Vimalamitra được Tôn giả Longchenpa hợp nhất trong giáo lý Longchen Nyingthig. Mối liên hệ trực tiếp, đặc biệt của Tôn giả Longchenpa với Padma Ledreltsal, nhờ là một vị trì giữ truyền thừa và mối liên hệ của Ngài với Đức Vimalamitra, nhờ những linh kiến lâu dài, trực tiếp, đem đến cho các luận giải của Ngài và sự hợp nhất hai giáo lý này tính xác thực tự nhiên và sâu sắc. Như hai dòng sông hòa làm một, hai giáo lý này được Tôn giả Longchenpa hợp nhất để trở thành nền tảng của truyền thừa Longchen Nyingthig do Tổ Jigme Lingpa thiết lập.

Tôn giả Longchenpa được biết đến là Văn Thù Sư Lợi của Xứ Tuyết và là vị Tổ của những giáo lý Dzogchen trong lịch sử Tây Tạng. Tại sao giáo lý Dzogchen lại sâu xa đến vậy? Bởi những giáo lý Dzogchen là con đường vô cùng sâu sắc và nhanh chóng nhất để đạt giác ngộ. Tại sao Dzogchen lại sâu sắc đến vậy? Sâu sắc là bởi những giáo lý này là các điểm trọng yếu, trực tiếp và rõ ràng trong việc liên hệ với bản tính của tâm – hơn rất nhiều so với bất kỳ giáo lý nào khác. Con đường nhanh chóng nhất nghĩa là, người ta, tùy theo căn cơ của bản thân, có thể đạt được sự chứng ngộ trọn vẹn của giác ngộ hay Phật tính trong vòng chỉ sáu tháng, hay vài năm, cho đến một đời. Kết quả thực sự của thực hành Dzogchen là thân cầu vồng, không chỉ tâm mà thân vật lý cũng trở thành những tia sáng giống như cầu vồng. Nhiều hành giả Dzogchen ở Ấn ĐộTây Tạng, bao gồm Garab Dorje – vị Tổ của những giáo lý Dzogchen trong cõi người, đã đạt được thân cầu vồng. Quả vị thân-cầu vồng thực sự này vẫn tiếp tục đạt được bởi những hành giả tinh tấn ngày nay.

Theo truyền thống, thực hành Dzogchen được tiến hành một cách riêng tư. Có nhiều đạo sư vĩ đại được biết đến là một “Yogi/Yogini ẩn mật”. Những hành giả này có thể không được nhận ra bởi chư vị thực hành riêng tư và không thông báo điều mà chư vị đang làm. Trong Mật điển Dzogpa Chenpo có nói rằng thực hành này vô cùng hữu hiệu trong thời suy đồi bởi các thực hành Dzogchen không đánh mất sức mạnh của ân phước gia trì trong thời suy đồi như vài Giáo Pháp khác.

Vậy thì Dzogchen có được thực hành bởi những hành giả của các truyền thống khác ngoài Nyingma hay không? Có nhiều vị phát lộ kho tàng vĩ đại trong các truyền thống khác – chủ yếu là Sakyapa và Kagyupa. Tuy nhiên, sự hành trì trọng yếu của chư vị cần phải là Dzogchen bởi ngay cả khi mối liên hệ gia đình là Sakyapa hay Kagyupa, sự phát lộ kho tàng của chư vị nằm trong phạm vi của Guru Rinpoche/Dzogchen. Vì thế, trong các truyền thừa Sakyapa và Kagyupa vẫn có sự kính trọng lớn lao dành cho Guru Rinpoche.

Liệu những giáo lý Dzogchen có tồn tạiTây Tạng trước khi Guru Rinpoche đến Tây Tạng hay không? Theo lịch sử Phật giáo, điều tuân theo Phật Thích Ca Mâu Ni, câu trả lời là không. Điều này là bởi lịch sử của Dzogpa Chenpo không phải thứ gì đó tách biệt với truyền thống của Phật Thích Ca Mâu Ni. Từ Tổ Garab Dorje cho đến hiện nay, tất cả những hành giả Dzogchen đều quy y Phật Thích Ca Mâu Ni là vị thầy chính yếuquy y giáo lý của Phật Thích Ca Mâu Nicon đường. Chư vị quy y Tăng đoàn của Phật Thích Ca Mâu Ni và xem đó là những thiện tri thức tâm linh. Trong thời kỳ giáo lý của Phật Thích Ca Mâu Ni, khi thỉnh cầu quy y Tam Bảo, người ta cho rằng bất kỳ ai quy y hệ thống khác thì không thực sự là một hành giả của giáo lý Phật Thích Ca Mâu Ni hay Dzogchen. Dzogchen là một phần trong Giáo Pháp thực sự của Phật Thích Ca Mâu Nilịch sử thực sự của Phật giáo Tây Tạng xuất phát từ Giáo Pháp thực sự của Phật Thích Ca Mâu Ni đó và dựa trên cùng nguyên tắc và những sự thật lịch sử.

Bây giờ, chúng ta sẽ nói về lịch sử của Nhập Thất Mùa Đông. Đức Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892) là hóa hiện về thân của Tổ Jigme Lingpa, một đạo sư vĩ đại, vị phát lộ kho tàng và đại thành tựu giả. Đức Jamyang Khyentse sở hữu bảy kiểu trao truyền, chẳng hạn sự khẩu truyền, trao truyền kho tàng đất, trao truyền kho tàng tâm, linh kiến bí mật và sự hồi nhớ, nhĩ truyền, v.v. Ngài là vị Terton vĩ đại nhất trong cả truyền thống Nyingma và Sakya và chúng tôi bắt đầu Nhập Thất Mùa Đông theo tiên tri của Ngài.

Từ Golog trong Tạng ngữ rút ra từ một từ nghĩa là kẻ gây rối. Trước khi đại thành tựu giả Do Khyentse Yeshe Dorje thiết lập sự hiện diện đặc biệt của Giáo Pháp ở Golog, nơi đây là một vùng vô cùng hoang dại, không có luật pháp và xa xôi. Đức Jamyang Khyentse tiên đoán rằng thực hành Giải Thoát Nhờ Lắng Nghe hay Shitro của Tổ Karma Lingpa sẽ giúp dân chúng Golog điều phục sự hoang dại của họ. Ngài thấy rằng nhiều người ở Golog không hiểu quy luật nghiệp và nhân quả. Vì lòng bi, Ngài muốn giúp đỡ họ. Ngài yêu cầu Đức Do Khyentse hoằng dương thực hành Giải Thoát Nhờ Lắng Nghe của Tổ Karma Lingpa và thiết lập truyền thống Shitro ở Golog. Đức Do Khyentse đã hoàn thành điều này và thiết lập truyền thống, theo đúng tiên tri của Đức Jamyang Khyentse. Đó là nền tảng của Nhập Thất Mùa Đông của chúng tôi hiện nay.

Có mười vị trì giữ ngai tòa hay vị trì giữ truyền thống của Tu viện chúng tôi – mười Kim Cương Thượng Sư, về mặt lịch sử bắt đầu từ Đức Do Khyentse cho đến tôi hiện nay. Tu viện này trước kia là Tu viện du mục, nghĩa là không có một tòa nhà hay địa điểm. Vì thế, Tu viện di chuyển đây đó, sử dụng lều trại. Vị trì giữ ngai tòa thứ bảy là bác của Lama Sang – Sonam Kye Drup (khoảng 1860-1940), hóa hiện của Trừ Cái Chướng Bồ Tát, một trong Tám Đại Bồ Tát. Ngài Sonam Kye Drup đã giảng dạy Shitro và những giáo lý Bardo với lòng bi mẫn và khả năng lớn đến mức Ngài khiến số lượng thành viên Tăng đoàn, hành giả cư sĩđệ tử tăng lên rất nhiều.

Vị trì giữ ngai tòa thứ chín là Lama Sang – Orgyen Kusum Lingpa (1934-2009), một hóa hiện của Kim Cương Thủ và Tổ Lhalung Palgyi Dorje, một trong hai mươi lăm tâm tử ban đầu của Guru Rinpoche. Ngài trở thành một Terton khi mười tám tuổi nhờ nhìn thấy [Tổ đình] Samye và nhớ về các đời quá khứ. Ngài có linh kiến về các nghĩa địa bùng cháy, cõi Tịnh độ của Mã Đầu Minh Vương khi Ngài hai mươi ba tuổi. Ở cõi Tịnh độ của Mã Đầu Minh Vương, Ngài thọ nhận các quán đỉnhgia trì từ chư vị phẫn nộ, Bổn tôn và Không Hành Nữ và tịnh hóa những che chướng. Ngài cũng nhận tiên tri hay thông tin về tương lai của giáo lý Phật Đàtình trạng của dân chúng từ Ekajati, vị bảo vệ chính yếu của Dzogpa Chenpo. Lama Sang cũng nhận được một tiên tri về sự qua đời của chính Ngài, điều xảy ra chính xác như tiên tri mà Ngài nhận vào năm 23 tuổi.

Theo những tiên tri của chư đạo sư vĩ đại, chẳng hạn Tổ Dodrupchen thứ nhất, Dzogchen Rinpoche thứ 4 và nhiều vị Lama quan trọng khác, các Terma được phát lộ của Lama Sang về Cỗ Xe Lửa Yamaraja, ba hình tướng phẫn nộ của Guru Rinpoche và Tám Nghi Quỹ đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn giáo lý Phật ĐàTây Tạng. Theo các tiên tri, ba Terma này đã bảo vệ sinh lực giáo lý Phật ĐàTây Tạng, bất chấp các yếu tố tiêu cực, chẳng hạn Cách mạng Văn hóa. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc Lama Sang xuất hiệnphát lộ Terma vào thời ấy. Lama Sang trải qua vô số khó khăn – Ngài nhiều lần suýt chết, nhưng bởi những nguyện ước, nỗ lực và lòng dũng cảm, Ngài không chỉ sống sót mà còn liên tục tích cực với năng lượng không vơi cạn. Bởi lòng bi và trí tuệ, Ngài có thể tăng trưởng các hoạt động Giáo Pháp và lòng sùng mộ của mọi ngườiđặc biệt, Ngài khiến các thực hành Shitro và giáo lý Bardo trở nên nổi bật và hữu ích hơn với nhiều người. Từ khi còn trẻ, Ngài đã có những giấc mơ và linh kiến về việc xây dựng lại Tu viện Lung-ngon. Ngài cũng có những linh kiến về các hoạt động quốc tế trong tương lai liên quan đến việc hoằng dương Giáo Pháp để làm lợi lạc nhiều chúng sinh, bao gồm các linh kiến xuất hiện những người mắt xanh, mũi to, nhiều lông và những người nói như chim và tranh luận rất nhiều và không đồng thuận với nhau. Thông qua tất cả các hoạt động khác nhau, Ngài luôn nỗ lực vất vả để bảo vệ sự toàn vẹn của truyền thống Shitro do Tổ Do Khyentse thiết lập và thực sự đã làm rất nhiều việc thành công ở đây, tại Golog vì điều đó.

Từ duyên khởi các nguyện ước của Tổ Do Khyentse và Lama Sang, truyền thống Shitro đã trở thành một truyền thống rất phong phú ở Golog. Khi dân chúng ở Golog qua đời, người ta sắp xếp mọi chuyện rất tốt. Họ thỉnh mời những Lama đến thực hành và trì tụng Shitro trong 49 ngày vì người đã khuất. Họ chuẩn bị thức ăn, dâng cúng dường và sắp xếp sự tiếp đón, v.v. cho thực hành Shitro.

Vậy thực hành Shitro là gì và nó đã xuất hiện thế nào? Shitro nghĩa là chư vị an bìnhphẫn nộ và là một thực hành dựa trên đàn tràng (Mandala) 100 vị an bìnhphẫn nộ. Nó cũng bao gồm Ngũ Trí Như Lai phụ và mẫu, Tám Bồ Tát nam và nữ, sáu vị Muni, năm Heruka phẫn nộ cùng phối ngẫu, v.v. Shitro trình bày một sự giới thiệu rất rõ ràng về Sáu Bardo: 1. Bardo đời này; 2. Bardo thiền định; 3. Bardo lâm chung; 4. Bardo giấc mộng; 5. Bardo Pháp tính và 6. Bardo trở thành hay các khả năng. Chẳng có gì, trong các khía cạnh và thực hành khác nhau, không nằm trong Sáu Bardo. Sáu Bardo chỉ được giảng dạy theo cách thức trọn vẹnrõ ràng trong Mật điển Giải Thoát Nhờ Lắng Nghe.

Trăm Vị An BìnhPhẫn Nộ dường như là các hình tướng bên ngoài, nhưng thực sự, chư vị là các nhận thức tự nhiên xuất hiện của tâm chúng ta. Bởi điều này, người ta sẽ có thể giải thoát nhờ nghe những giáo lý về Bardo và thấy các hình tướng của chư vị như được miêu tả trong các giáo lý trong thực hành. Điều này đặc biệt đúng trong Bardo trở thành, cũng được biết đến là Bardo của các khả năng. Trong Bardo trở thành hay Bardo của các khả năng này, người ta cởi mở trước các chỉ dẫnmiêu tả và nhờ tuân theo, họ tiến gần đến giải thoát. Nói cách khác, những giáo lý Bardo hữu hiệu, mạnh mẽ và lợi lạc hơn khi người ta trong Bardo của các khả năng, bởi thần thức trong trạng thái đó khá sợ hãivô vọng và họ đang tìm kiếm phương hướng. Thực hành Shitro là một giáo lý sâu sắc bởi nó dựa trên bản tính của tâm và các hình tướng của bản tính đó là những hóa hiện hay thay đổi, tự nhiên xảy ra, có hệ thống của giác tính của chính họ. Vì vậy, phần chính yếu của thực hành Shitro là Ati Yoga (tức Dzogchen), điều nghĩa là thừa cao nhất trong tất cả tám vạn bốn nghìn Pháp môn.

Truyền thừa của thực hành Shitro này giống với truyền thừa Dzogpa Chenpo. Trong truyền thống Nyingma, trong từng thực hành Mật điển, có những trao truyền của ba truyền thừa: truyền thừa tâm, truyền thừa biểu tượngtruyền thừa lắng nghe. Tôi sẽ giải thích kỹ hơn về truyền thừa lắng nghe của thực hành Shitro.

Vua Trisong Detsen, con trai, dịch giả Lu’i Gyaltsen và nhiều vị khác trong các đệ tử của Guru Rinpoche đã chuẩn bị Mandala vàng chứa đầy lam ngọc, san hô và những thứ quý giá khác. Họ thưa với Guru Rinpoche, “Hỡi Kim Cương Thượng Sư vĩ đại, Guru Rinpoche, lòng từ và bi của Ngài bao la như hư không và chúng con sẽ chẳng bao giờ có thể đền đáp lòng từ của Ngài. Ngài đã ban nhiều điều mà không ai khác có thể hay sẽ có thể ban. Chúng con thật may mắn vì điều đó. Nhưng chúng con muốn thỉnh cầu rằng Ngài ban cho chúng con một giáo lý vô cùng sâu xa, điều chưa từng được giảng dạy trước kia. Một giáo lýtinh túy của tất cả các thừa ngoại và nội, để người ta có thể đạt giác ngộ trong một đời, một giáo lý mà người ta không cần phải trải qua nhiều khó khăn, một giáo lý mà người ta được giải thoát chỉ nhờ nghe những giáo lý”. Họ đã thỉnh cầu như vậy với nước mắt của lòng sùng mộ và sự cầu khẩn mãnh liệt đến Guru Rinpoche.

Sau đấy, Guru Rinpoche bảo với họ rằng, “Này đức vua, Ngài cùng với hoàng tử, các thượng thư và đệ tử, theo lời thỉnh cầu của quý vị, Ta có Giáo Pháp như vậy. Nhưng, điều này không thích hợp với những kẻ hẹp hòi hay người không có niềm tintà kiến. Do đó, quý vị không nên cho những người như vậy thấy giáo lý này. Ta sẽ chôn giấu chúng như một kho tàng (Terma) vì lợi ích của chúng sinh trong tương lai. Đó là giáo lý tâm yếu của Phổ Hiền và là điểm trọng yếu của tất cả 6.400.000 Mật điển Dzogpa Chenpo. Đó là giáo lý ngăn tái sinh trong các cõi thấp hơn chỉ nhờ lắng nghe, một giáo lý dẫn đến đại lạc nhờ lắng nghe, một giáo lý với cách tiếp cận của cấp độ Trì Minh Vương tự nhiên hiện hữu nhờ nghĩ về ý nghĩa. Đó là một giáo lý tinh túy của tất cả các thừa ngoại và nội, một giáo lý mà người ta có thể đạt giác ngộ trong một đời”. Tiếp đó, Guru Rinpoche giảng dạy toàn bộ giáo lý về Sáu Bardo. Đó là cách mà giáo lý này lần đầu tiên xuất hiện trên thế gian.

Guru Rinpoche, vì lợi ích của chúng sinh trong tương lai với công đức ít hơn, nói rằng, “Ta sẽ đặt tên thực hành Shitro này là Thực Hành Sâu Xa Về Chư Tôn An BìnhPhẫn Nộ Giải Thoát Nhờ Lắng Nghe và Ta sẽ chôn giấu nó như một kho tàng để được phát lộ trong tương lai”. Kế đó, một cách diệu kỳ với nhiều lời cầu nguyện và nguyện ước để đẩy lùi chướng ngại, Guru Rinpoche chôn giấu kho tàng này ở Núi Gampo, miền Trung Tây Tạng và tiên đoán về Karma Lingpa, vị sẽ khám phá kho tàng.

Bởi những lời cầu nguyện và nguyện ước của Guru Rinpoche, vị phát lộ kho tàng Karma Lingpa đã sinh ra ở miền Trung Tây Tạng. Karma Lingpa là một hóa hiện của dịch giả Lu’i Gyaltsen, một trong các đệ tử của Guru Rinpoche. Cha của Ngài là Nyda Sangye, một đại thành tựu giả và Terton. Karma Lingpa đã khám phá ra Shitro trên Núi Gampo và bí mật thực hành Shitro trong suốt cuộc đời. Ngay trước khi qua đời, Ngài giảng dạy và ban quán đỉnh thực hành Shitro cho con trai – Nyda Choje, vị trở thành một bậc trì giữ truyền thừa Shitro. Karma Lingpa cũng bảo con trai không được trao kho tàng này cho bất kỳ ai khác ngoại trừ Nyda Odzer, vị được nhắc đến trong tiên tri và sẽ là một bậc trì giữ truyền thừa về các thực hành Shitro.

Về sau, khi Nyda Choje gặp Nyda Odzer, Ngài bảo rằng, “Con được cha Ta nhắc đến và là vị trì giữ truyền thừa thứ ba. Ta chưa từng cho ai khác thấy thực hành này và cho đến thế hệ các vị trì giữ truyền thừa thứ ba, thực hành này vẫn duy trì bí mật”. Kho tàng của Tổ Karma Lingpa ban đầu là sự trao truyền duy nhất – trao truyền từ một người cho một người. Nyda Choje yêu cầu Nyda Odzer thực hành Shitro bí mật trong sáu năm, sau đấy Giáo Pháp này sẽ được phổ biến cho người khác. Tiên tri của Tổ Karma Lingpa tuyên bố rằng giáo lý kho tàng sẽ lan tỏa từ vùng xung quanh Núi Gampo về phía Bắc. Nyda Odzer đã trao truyền những giáo lý này cho Namkha Gyatso, vị đã ban các quán đỉnh cộng đồnggiáo lý cuối cùng đã lan rộng khắp Tây Tạngthế giới.

Là một đạo sư Nyingmapa, người ta phải có giáo lýthực hành này. Thực hành Shitro cũng được thực hành mở rộng trong các truyền thống Sakya và Kagyu. Có hàng trăm nghìn câu chuyện về những người được lợi lạc từ thực hành Shitro. Trong các trước tác kho tàng của Lama Sang, có nhiều ám chỉ đến việc Lama Sang là vị tái sinh của Tổ Karma Lingpa. Có lẽ đấy là một lý do khiến Lama Sang có lòng sùng mộ và niềm yêu thích lớn lao trong việc giảng dạy thực hành Shitro trong nhiều năm cho rất nhiều người. Lama Sang đã chỉ ra rất rõ ràng với tôi rằng các thực hành Shitro cần được tôi tiếp tục cho đến khi tôi chết.

Lama Sang là người đã thành lập Tu viện Lung-ngon hiện đạicuối cùng chúng tôi đã chuyển đến làng Lung-ngon, nơi chúng tôi tọa lạc hiện nay. Lama Sang đã xây dựng chùa Samye Amdo và Đại Bảo Tháp cùng các công trình khác làm nơi ở cho chư Tăng, bắt đầu từ khoảng năm 1985. Ngài thành lập trung tâm nhập thất Phổ Ba Kim Cương và ngôi trường Giáo Pháp. Lama Sang giảng dạy giáo lý về Shitro và Nhập Thất Mùa Đông trong hơn ba mươi năm.

Tôi được công nhận là vị tái sinh thứ năm của Tổ Do Khyentse Yeshe Dorje bởi Lama Sang Orgyen Kusum Lingpa, Kyabje Dodrupchen Rinpoche thứ 4, Kyabje Penor Rinpoche và nhiều vị Lama quan trọng khác. Tôi chính thức được tấn phong bởi Tu viện Lung-ngon với sự cho phép cần thiết từ chính quyền Trung Quốc vào năm 1994. Tôi là vị trì giữ ngai tòa thứ mười. Tôi đã thọ nhận những giáo lý, quán đỉnhchỉ dẫn cần thiết từ Lama Sang và những Lama vĩ đại khác, chẳng hạn Kyabje Dodrupchen Rinpoche, Kyabje Penor Rinpoche, Kyabje Katog Moksa Rinpoche và nhiều vị khác. Tôi đã thực hành tương ứng để trở thành một đạo sư. Tôi đã tiến hành nhiều sự trì tụng Mật chú cho Tam Gốc, bao gồm Shitro và các thực hành khác, để có thể và có thẩm quyền ban giáo lý, quán đỉnhchỉ dẫn.

Một chút thông tin quan trọng khác về tôi là tôi đã thọ nhận những giáo lý Dzogchen từ Kyabje Kang Sar Tenpai Anshok, người là một Terton và vị tái sinh của Yudra Nyingpo – tâm tử của Vairotsana và cũng là một trong hai mươi lăm đệ tử của Guru Rinpoche. Ngài là một đạo sư Dzogchen vô cùng quan trọng, nổi tiếng khắp Tây Tạng và đã giảng dạy tại nhiều Tu viện. Kyabje Kang Sar Tenpai Anshok đã ban những giáo lý Yeshe Lama tại Tu viện Lung-ngon vào năm 2011. Khi ấy, Ngài công nhận tôi là vị trì giữ truyền thừa chính yếu cho truyền thừa Yeshe Lama/Dzogchen.

Một đạo sư Dzogchen vĩ đại và quan trọng khác, Kyabje Khenchen Padma Wangyal là một trong những học trò chính yếu của Tupga Rinpoche, vị lại là Bổn Sư chính của Đức Jigme Phuntsok Jungne. Kyabje Khenchen Padma Wangyal là đệ tử và đã thọ nhận Nyingthig Yabshi từ Khenpo Kunzang Palden. Khenpo Kunzang Palden là đệ tử của Đức Patrul Rinpoche và đã biên soạn một luận giải nổi tiếng về Lời Vàng Của Thầy Tôi và những giáo lýluận giải của Patrul Rinpoche về Bồ đề tâm dựa trên Nhập Bồ Tát Hạnh của Tổ Tịch Thiên.

Nyingthig Yabshi là bốn nhánh của pho giáo lý Tâm Yếu về Dzogchen của Tôn giả Longchen Rabjam, là trung tâm của thực hành Dzogchen hiện nay trên thế gian. Tôi đã thọ nhận, hai lần, Nyingthig Yabshi cùng mọi quán đỉnh, giáo lýluận giải liên quan từ Kyabje Khenchen Padma Wangyal. Kyabje Khenchen Padma Wangyal có những linh kiến trực tiếp về Tôn giả Longchenpa. Ngài đã thọ nhận giáo lý và trao truyền từ chính Tôn giả Longchen Rabjam, điều mà Ngài sử dụng trong lúc giảng dạy cho chúng tôi. Kyabje Khenchen Padma Wangyal cũng là một vị trì giữ truyền thừa vô cùng quan trọng của Dzogchen nói chung và Nyingthig Yabshi nói riêng. Năm 2017, Ngài thông báo với nhiều người trong Pháp hội cộng đồng rằng Ngài chỉ định tôi tiếp tục truyền thống này, trao truyền và giảng dạy truyền thừa này trong tương lai.

Mặc dù tôi có nhiều đạo sư vĩ đại nói chung và đặc biệt trong những giáo lý Dzogchen, vị Bổn Sư chính yếu của tôi là Lama Sang. Ngài là vị thầy đã lần đầu tiên giới thiệu Rigpa hay bản tính tâm cho tôi khi tôi 15 tuổi. Sự giới thiệu đặc biệt đó từ Lama Sang là hữu hiệu nhất. Kể từ đó, thực hành chính yếu của tôi luôn là Dzogpa Chenpo. Tôi biết rằng tôi là một kẻ thấp kém, luôn bận rộn với những điều không quan trọng và lười biếng về Giáo Pháp, nhưng tôi vẫn cố gắng thực hànhduy trì trong Rigpa nhiều nhất có thể.

Sự chứng ngộ hay nhận ra Rigpa dựa trên các tích lũy, lòng sùng mộ chân chính, chỉ dẫn sâu xa từ một đạo sư chân chính; cũng có nhiều yếu tố khác, nhưng những phần trung tâm hay quan trọng nhất là lòng sùng mộ với đạo sưbản tính của chúng ta. Thực hành ngoại Ngondro, nội Ngondro và Đạo Sư Du Già, cũng như hành trì tinh tấnchân thành, là chìa khóa để đạt được chứng ngộ.

Tôi luôn cố gắng thực hành các Pháp tu khác nhau, chẳng hạn luyện tâm và thiền định quán tưởng. Nhưng với tôi, điều hữu hiệu nhất, để tâm tôi điềm tĩnh, an bìnhrõ ràng, là duy trì trong Rigpa bởi duy trì trong Rigpa nghĩa là trực tiếp thấy được bản tính của tâm. Điều này về cơ bản là Dzogpa Chenpo. Không có gì đơn giản hay hữu hiệu như thực hành Dzogpa Chenpo. Dĩ nhiên, với Lama Sang, không đơn thuần là Dzogpa Chenpo là thực hành chính yếu của Ngài và giáo lý Dzogchen thì vô cùng quan trọng với Ngài, mà Ngài cũng đã đạt được sự chứng ngộ cao của Dzogchen. Vì thế, Lama Sang, liên tục và lặp đi lặp lại nhiều lần, bảo chúng tôi duy trì trong Rigpa, duy trì trong Rigpa, duy trì trong Rigpa, đừng lang thang trong các ý niệm, đừng duy trì trong các ý niệm, đừng bị xao lãng bởi các ý niệm, đừng bám chấp vào các ý niệm. Đó là điểm trọng yếu trong mọi giáo lý của Lama Sang trong suốt cuộc đời Ngài. Bởi giáo lý Dzogpa Chenpo vô cùng quan trọng với Lama Sang, Ngài luôn muốn giáo lý Dzogchen duy trì trên thế gian này vì lợi ích của hữu tình chúng sinh. Đặc biệt, Ngài có nhiều hứa nguyện cá nhân và những kết nối mật thiết với Shitro và giáo lý Sáu Bardo vì mục đích này. Bên cạnh đó, Lama Sang đã tiến hành những sắp xếp đặc biệt để tôi lắng nghe giáo lý, thọ nhận quán đỉnh và nhận được mọi điều cần thiết để giảng dạy, trực tiếp từ Ngài. Ngài bảo tôi một cách riêng tư và trước đám đông rằng, “Hungkar Dorje sẽ giảng dạy Sáu Bardo và Ngài cần giảng dạy chúng, Ngài phải giảng dạy chúng”. Ngài cũng tin rằng tôi là một vị trì giữ truyền thừa kho tàng của Ngài về Ba Vị Phẫn Nộ Căn Bản, Đại Oai Đức Kim Cương, Orgyen Dzambhala [Tài Bảo Orgyen], Phổ Ba Kim Cương và Tám Nghi Quỹ Về Tám Bổn Tôn. Đó là cách mà Ngài cho phép sự chuyển giao từ Ngài sang tôi và để tôi điều hành Tu viện và dẫn dắt mọi Phật sự, bao gồm cả Nhập Thất Mùa Đông.

Lama Sang và những Lama khác nói rằng tôi là vị tái sinh của những hành giả Dzogchen vĩ đại – Do Khyentse Yeshe Dorje, Trisong Detsen và Hungkara, một trong tám Trì Minh Vương vĩ đại của Ấn Độ. Mặc dù tôi không biết chính xác liệu tôi có phải những đạo sư vĩ đại này trong quá khứ hay không, tôi tin rằng tôi đã thực hành Dzogchen trong các đời quá khứ, bởi tôi có lòng sùng mộ sâu sắc và tự nhiên với Dzogpa Chenpo kể từ khi còn rất nhỏ. Điều kiện tự nhiên này khiến mọi thứ dễ dàng và khả thi hơn trong thực hành, cho phép người ta cải thiện kinh nghiệm của sự hành trì. Dù tôi đã nỗ lựcTu viện và ban vài giáo lý cũng như quán đỉnh, điều bắt đầu vào những năm 1990, tôi chính thức trở thành một đạo sư căn bản tại Tu viện kể từ khi Lama Sang qua đời vào năm 2009. Đã mười năm kể từ khi tôi tiếp quản những trách nhiệm này và dẫn dắt Nhập Thất Mùa Đông.

Giờ đây, mọi người ngày càng trở nên chí thànhtin tưởng tôi nhiều hơn lúc ban đầu. Những người ở đây, bao gồm chư Tăng, Ni và Yogi, có nền tảng tốt về kiến thức Giáo Pháp và họ hiểu cách thức chấp nhận một đạo sư là vị thầy chính yếu của họ. Ở đây, tại Golog, người ta không chấp nhận, một cách rất dễ dàng, bất cứ ai là đạo sư chính và cũng cần phải như vậy. Kiến thức từ lắng nghe nhiều kinh văn, hành động tuân theo các bản văn Giáo Pháp và kinh nghiệm về ý nghĩa của các bản văn, ba điều này là những phẩm tính chính yếu cần được phát triển với một đạo sư có thể được chấp nhận.

Tôi và nhiều người khác đã gặp một số Geshe và Khenpo, những vị có thể nói rất nhiều và được cho là uyên bác về nhiều bản văn, nhưng lại dẫn dắt người ta đến con đường sai lầm. Vì thế, hành động hay hành vi tốt thì quan trọng hơn kiến thức. Kinh nghiệm về trí tuệ và lòng bi mới là trí tuệ và lòng bi thực sự. Trí tuệ và lòng bi được trải nghiệm thì quan trọng hơn nhiều so với kiến thứchành vi đơn thuần, ngay cả hành vi có vẻ tốt, điều không dựa trên kinh nghiệm. Kinh nghiệm về bất cứ điều gì trong Giáo Pháp đến từ sự hành trì thực sự. Sự hành trì thực sự không chỉ là nghiên cứu, không chỉ là suy nghĩ, mà là kết hợp hành động của bạn với sự hiểu. Ai đó, người đã nghiên cứu rất nhiều trong một Tu viện hay với đạo sư hoặc Lama nào đó, điều đó không nhất thiết nghĩa là họ là hành giả Giáo Pháp tốt, đặc biệt nếu họ chưa kết hợp sự hiểu với các hành động. Kiểu người đó có thể dẫn dắt người khác đến con đường sai lầm.

Mọi người đều biết rằng đi theo một đạo sư đủ phẩm tính, người có thể dẫn dắt bạn đến con đường Giáo Pháp đúng đắn, là điều vô cùng quan trọng. Đôi lúc, người ta đi theo những tà sư bởi vận rủi, bất hạnh và sự hiểu sai lầm. Vì thế, bởi vận rủi, bất hạnh và sự hiểu sai lầm của bản thân, họ không thể kết nối với Giáo Pháp chân chính. Khi gặp những người như vậy, chúng ta cảm thấy rất buồn và thương, nhưng cũng không dễ để cứu họ. Đó là bởi nghiệp và vô minh nặng nề và cũng bởi sự ngang bướngphiền não của họ. Phiền não tinh thần mạnh mẽ đến vậy. Phiền não tinh thần ở khắp nơi trong tâm mọi người. Bởi phiền não, hay cảm xúc tiêu cực, là lý do chúng ta sinh trong cõi người. Tôi thấy cõi người này rất tương đồng với cõi của chư thiên đố kỵ, bởi sự đố kỵ là kho tàng trong tim người ta. Đấy là lý do tại sao không thể ở bên ai đó không đố kỵ. Cá nhân tôi đã lớn lên bên đủ mọi kiểu người đố kỵ ở khắp mọi nơi, đủ kiểu người đố kỵ bao gồm bạn bè, họ hàng, Khenpo, Lama và Tulku, gồm cả những người với kết nối rất thân thiết. Đấy là lý do mà bất kỳ ai, trong đó có cả tôi, thấy thật khó để là ‘người hoàn hảo’ với tất cả.

Vairocana nói điều gì đó đại loại như, “Không ai có thể thỏa mãn, nhưng làm những điều không khiến cho Đức Phật buồn là đủ tốt rồi”. Sẽ là đủ tốt nếu không lừa dối những người tin tưởng hay tin cậy bạn. Sẽ là đủ tốt nếu những môn đồ Giáo Pháp không lao vào một kết nối với lý do cá nhân sai lầm, mà đi theo một đạo sưmục đích Giáo Pháp. Sẽ là đủ tốt nếu đi theo một đạo sư không vì mục đích chống lại ai đó. Sẽ là đủ tốt nếu đi theo một đạo sư khi không biết rất nhiều. Sẽ là đủ tốt nếu đi theo một đạo sư mà không có quá nhiều nghi ngờ.

Khi người ta đi theo một vị thầy vì những lý do sai lầm này mà tôi nhắc đến, họ sẽ lãng phí nhiều thời gian, nhiều của cải, tạo ra ác nghiệpcuối cùng, họ đánh mất niềm tin hoặc sẽ hối tiếc và gặp một kết quả xấu. Họ cũng bỏ lỡ cơ hội tốt đẹp trong đời này và các đời sau. Vì thế, bất kỳ ai muốn trở thành một đạo sư, phải hiểu rằng họ có trách nhiệm về tương lai của các môn đồ và cần cố gắng hết sức. Bất kỳ ai muốn trở thành một môn đồ của Giáo Pháp, phải hiểu rằng họ chịu trách nhiệm cho các đời tương lai. Giáo Pháp không phải món đồ để chơi, đó không phải là một vị trí mà từ đó bạn khoe khoang sức mạnh, đó không phải là lời nói đùa để trêu chọc mọi người. Giáo Phápcon đường đến giải thoát, con đường mà từ đó bạn thoát khỏi ác nghiệp. Sử dụng Giáo Pháp theo cách thức đúng đắncam lồ phá hủy sự phiền muộn và các cảm xúc tiêu cực. Giáo Pháp được sử dụng sai lầm thì là chất độc phá hủy hạnh phúc và những điều tích cực. Bởi thế, mọi người phải cố gắng một cách chân thànhchuẩn xác.

Điều quan trọng là một đạo sư phải có lịch sử cuộc đời tốt đẹp cùng một truyền thừa không gián đoạnthanh tịnh. Điều đó là bởi những điều kiện này tạo thành cội nguồn thông tin rất đáng tin cậy, điều có thể giúp người ta đánh giá một vị thầy và quyết định xem người đó liệu có trở thành một vị thầy tốt. Tất cả chư Phật, Bồ Tátđạo sư vĩ đại đều có tiểu sử tốt và truyền thừa thanh tịnh.

Điều vô cùng phổ biến là bất kỳ ai cũng đều có những lời đồn. Sẽ là không thích hợp khi có hay lan những lời đồn về mối quan hệ giữa học trò và đạo sư. Các thệ nguyện hay Samaya bị phá vỡ với đạo sư hay Bổn Sư thì ở mức độ vô cùng nghiêm trọng. Trong các Kinh điểnMật điển có nói rằng, nếu một đệ tử Giáo Pháp hay một vị thầy Giáo Pháp có Samaya với Bổn Sư, sau đấy lại phá vỡ Samaya, chỉ trích vị thầy đó, đánh nhau với vị thầy đó, v.v. thì mối liên hệ của chúng ta với người đó làm ô nhiễm chúng ta và phải bị từ bỏ. Nếu chúng ta nghi ngờ rằng ai đó đã phá vỡ thệ nguyện Samaya, bằng cách nghe, thấy hay có nghi ngờ về họ, là những hành giả Giáo Pháp, chúng ta cần rút khỏi mối liên hệ đó.

Vấn đề lớn nhất là khi đệ tử phá vỡ Samaya với đạo sư của họ và họ không chấp nhận điều đó. Họ giả vờ là chẳng có gì xảy ra. Điều này đang diễn ra trong các cộng đồng Phật giáo. Nó đáng lẽ không nên xảy ra, nhưng lại đang diễn ra. Nó đang xảy ra trong các cộng đồng Phật giáo Tây TạngẤn Độ, ở Tây Tạng và ở phương Tây, v.v. Vì thế, hãy chân thật, khéo léo và cẩn trọng. Nếu người ta thực sự phá vỡ Samaya với đạo sư, cách tốt nhất là chấp nhận rằng chuyện đó đã xảy ra, hối hận rằng nó đã xảy ra, sám hối với đạo sư và kết nối lại với Ngài.

Chỉ là một đạo sư có lẽ cũng không khó đến vậy. Nhưng, thật khó để là một đạo sư tốt, người có kiến thức và đã thọ nhận sự trao truyền truyền thừa thực sự. Cũng thật khó để là một đạo sư tốt trong các Tu viện và ngôi trường Giáo Pháp quan trọng. Điều khiến một Tu viện trở thành Tu viện quan trọng là có chương trình giảng dạy hay khóa nghiên cứu tốt, với các bản văn cao cấp và đầy đủ, và cũng có những Lama quan trọng ở đó. Tu viện Lung-ngon được nhiều người ở Tây Tạng biết đến bởi ngôi trường Giáo Pháp của chúng ta và Lama Sang. Lama Sang rất nổi tiếng, không nhất thiết bởi vì sự uyên bác của Ngài, mà bởi nhận thức cao hơn, những tiên tri, dấu hiệu diệu kỳ và sự chứng ngộ sâu xa của Ngài. Như thế, Ngài đem đến cho Tu viện Lung-ngon danh tiếng tốt đẹp về các nghiên cứuthực hành Giáo Pháp.

Lama Sang sống khiêm nhường và thực hành sự hài lòng rất tốt, không chút tham luyến vật chất. Ngài cũng dạy chúng tôi điều đó và tầm quan trọng của việc sống một cuộc đời đơn giản. Thật khó để nhớ những giáo lý này và tuân theo thì còn khó hơn. Khi tôi thực sự bắt đầu điều hành Tu viện, sau khi Lama Sang qua đời, tôi thấy nhiều người, hay một số vị Tăng và một vài hành giả Giáo Pháp vô cùng thích thú những thứ vật chất. Bởi Lama Sang đau ốm hoặc bận rộn và những tu sĩhành giả thiếu giáo lý của Ngài, nhiều người trong số họ bị xao lãng bởi việc kiếm tiền và không thể tập trung vào Giáo Pháp trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2009.

Vì vậy, tôi đã cố gắng hết sức để giải quyết vấn đề đó và ban nhiều giáo lý về cách thức sống một cuộc đời chân chính như một vị Tăng, Ni hay Yogi. Đã mất vài năm để thực sự đề cập đến vấn đề, nhưng bây giờ có vẻ như mọi chuyện đang tiến triển tốt đẹp. Những kiểu vấn đề này tồn tại trong nhiều Tu viện trong các truyền thống Phật giáo khác nhau, đặc biệt trong những Tu viện thu hút khách du lịch. Tu viện vẫn tiếp tục mở rộng, về số lượng Tăng và Ni, về mặt địa lý, về số lượng tòa nhà, v.v. Chúng tôi vẫn đang giữ gìn tất cả truyền thống của Lama Sang như là nền tảng. Khi chúng tôi thiết lập một truyền thống mới, chẳng hạn các ngôi trường Giáo Pháp trong trung tâm Yogi, Ni viện, Trường Văn Thù Sư Lợi cho những tu sĩ trẻ, chúng đều được kết hợp như là sự hỗ trợ cho các truyền thống đang tồn tại. Tôi đã hỗ trợ thêm những truyền thống đang tồn tại khi xây dựng các trung tâm nhập thất Yeshe Lama cho chư Tăng và Ni, Trung Tâm Thiền Định Tâm Yếu Không Hành Nữtrung tâm nhập thất Troma Ling về thực hành Chod dành cho chư Ni.

Có thêm khoảng sáu mươi Khenpo tại Tu viện hiện nay so với tám năm trước, vào năm 2012. Có thêm nhiều Phật sự so với trước kia, chẳng hạn [Pháp hội Cầu Nguyện] Dzambhala Monlam, Lễ Cầu Nguyện Cực Lạc, Lễ Cầu Nguyện Tác Minh Phật Mẫu, Thực Hành Tưởng Niệm Tôn giả Longchenpa, Thực Hành Tưởng Niệm Lama Sang, Trì Tụng Văn Thù và Lễ Cầu Nguyện Lục Độ Mẫu. Đông chí hàng năm, chúng tôi thực hành Địa Tạng Bồ Tát. Chúng tôi cũng trì tụng Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương trong hai ngày. Điều này đặc biệt vì những vị cúng dường tịnh tài để thỉnh cầu các lời cầu nguyện vì người đã khuất. (Điều này bổ trợ cho mọi nghi thức và lời cầu nguyện khác vì người chết, bao gồm Shitro.) Chúng tôi cố gắng phụng sự mọi người, đặc biệt những vị tham dự Nhập Thất Mùa Đông. Chúng tôi cho gạo, bát nấu, bột và dầu như một phần trong sự phân phát đồ ăn miễn phí. Chúng tôi thường cúng dường Torma, hoa, hương, rượu và nước và Tsog, v.v. như một phần của các nghi thứcnghi lễ.

Lama Sang đã giảng dạy các giáo lý Nhập Thất Mùa Đông ở bên ngoài. Không có nhiều nghi lễ chính thức nào như hiện nay. Nó rất đơn giản. Điều đó khó khăn với sức khỏe của mọi người bởi không có điều kiện thuận lợi và trời thì lạnh, nó ảnh hưởng đến khớp và khiến người ta còng đi. Do vậy, tôi muốn bảo vệ sức khỏe của họ trước gió dữ và lạnh giá. Vì thế, chúng tôi đã xây dựng những giảng đường lớn, nơi có sức chứa 4-5000 người. Dù căn phòng có thể giảm bớt cái lạnh rất nhiều, bên trong vẫn lạnh khi ngoài trời trở nên rất lạnh, điều xảy ra trong hầu hết các tháng mùa đông. Chúng tôi cũng chuẩn bị những cúng phẩm tùy theo bản văn cho các nghi lễ khác nhau. Do đó, bao gồm mọi nghi lễ và Lễ Cầu Nguyện Shambhala, chúng tôi đang chi hơn một triệu tệ trong một năm một cách rất dễ dàng.

Lama Sang là một đạo sư vĩ đại; vì thế, cũng ổn với Ngài khi không quá tỉ mỉ. Nhưng cách thức phổ biến nhất với hầu hết Phật tử, bao gồm các Lama cao cấp, là khá tỉ mỉ và làm mọi chuyện theo nghi thức, nhưng dĩ nhiên, tùy theo điều kiện của bản thân. Tiến hành các Phật sự theo nghi thức tốn nhiều sức lực, thời gian và chi phí. Nhưng đây cũng là cách thức chân thành để bày tỏ sự kính trọng với Đức Phật và là một cách để tích lũy công đức nhờ điều phục sự bủn xỉn. Phật dạy và cho phép sự đơn giản và không theo nghi thức với những vị không tham lam và những vị là người ăn xin. Nhưng Đức Phật yêu cầu rằng những người có cách thức và phương tiện, cần làm mọi điều vì Giáo Pháp càng trang nghiêm càng tốt. Do vậy, tôi nghĩ, tôi có một phong cách khác biệt, về mặt đó, khi so với Lama Sang, bởi tôi thường dẫn dắt mọi người và chỉ cho họ những điều cần phải được tiến hành trong các nghi lễthực hành. Dù chúng tôi đang cố gắng khiến mọi chuyện diễn ra tốt đẹp nhất có thể, chúng tôi không làm điều gì một cách thái quá.

Giữ một Tu viện lớn, giống như Tu viện này, không phải chuyện dễ dàng, đặc biệt nếu nó rất cao, lạnh vào mùa đôngmặt trời nóng vào ban ngày trong mùa hè, một lần nữa, giống như Tu viện này. Khi mà những điều kiện khắc nghiệt, độ cao lớn, với những công nhân chưa lành nghề, người chưa từng làm việc dưới những điều kiện như vậy và làm không tốt vì điều đó, kết hợp với môi trường ngược đãi, các dự án xây dựng dễ dàng bị phá hủy. Vì vậy, tôi có thể nói rằng, thực sự, Tu viện này đã phải xây dựng hai lần, về tất cả mọi thứ, từ năm 1985 đến 2020. Trong thời của Lama Sang, chùa chính và Đại Bảo Tháp phải được xây dựng hai lần. Về khu nhà dành cho chư Tăng, Ni và Yogi, tôi cũng đã phải xây hai lần. Không những vậy, mọi thứ khác ngoài chùa chính và Bảo Tháp, tôi đã phải xây dựng lại hay xây dựng ít nhất hai lần. Người ta có thể nghĩ rằng, thật thoải máivui vẻ khi đứng đầu Tu viện này. Thực sự, nếu bạn muốn thay vị trí của tôi, các bạn được hoan nghênh và như thế, tôi có thể nghỉ hưu. Những sự thật này có thể không liên quan trực tiếp đến Nhập Thất Mùa Đông, nhưng nếu Tu viện này không còn, truyền thống Nhập Thất Mùa Đông lịch sử và rất lợi lạc cùng nhiều điều ý nghĩa khác cũng sẽ biến mất.

Có một vài người đứng đầu Tu viện rất may mắn, người không phải chi nhiều tiền cho Tu viện hay các hoạt động trong Tu viện. Họ chỉ phải ban vài giáo lý. Một vài trong số họ không được chuẩn bị để ban giáo lý. Đôi khi, họ không sẵn lòng ban giáo lý vì sự khiêm nhường. Một số không may mắn, phải chăm sóc mọi thứ và ban mọi giáo lý. Tôi thuộc kiểu không may đó. Nhiều vị đứng đầu Tu viện rất khéo léo, vì thế, họ không nói cho bạn biết họ có gì, mặc dù họ có mọi thứ. Tôi thì không khéo léo như vậy, tôi nói tất cả. Thực sự, tôi có nhiều thứ, nhưng tôi có thể nói với các bạn, tôi không có bất kỳ khoản tiết kiệm nào.

Điều này bởi vì tôi có nhiều việc, tôi muốn sử dụng chúng để khiến Tu viện trở thành một nơi hấp dẫnđẹp đẽ, nơi sẽ tiếp tục gây sửng sốt và làm hài lòng mọi người sau cả đời này của tôi. Khi tôi có tiền, tôi muốn dùng nó. Điều mà tôi chi tiêu là vì một kết quả tích cực, chẳng hạn trường học, bệnh viện, từ thiệnTu viện. Tôi không cố gắng chỉ trích ai cả, mà chỉ để cung cấp thông tin chuẩn xác trong bối cảnh thực tiễn. Chúng tôi có một hệ thống rất tốt, điều cho phép chúng tôi theo dõi từng đô-la mà chúng tôi chi tiêu. Chúng tôikiểm tra và cân đối ở nhiều cấp độ; vì thế, lấy ví dụ, khi tôi phân phát tiền vì điều gì đó, nó được kiểm tra lại và chính thức chấp nhận bởi hai người khác. Tất cả những mua bán và/hoặc phân phát này được đưa tới ban [điều hành] Tu viện, những vị cũng kiểm tra lại chúng. Cuối mỗi năm, chúng ta công bố tất cả những gì đã đến với Tu viện và những gì không còn và tiền được dùng ở đâu. Chúng tôi có được danh tiếng tốt đẹp bởi phương pháp minh bạch này, điều giữ mọi thứ rõ ràng với mọi người.

Lý do chính khiến tôi điều hành Tu viện này là bởi yêu cầu của Lama Sang – lời yêu cầu và những lời cuối cùng của Ngài. Đó không phải là chuyện mà tôi thực sự luôn mong muốn. Điều mà tôi đang làm cho Tu viện là để báo đáp lòng từ của Lama Sang và tuân theo những chỉ dẫn của Ngài. Không chỉ những chỉ dẫn của Lama Sang, mà còn cả các chỉ dẫn từ những đạo sư từ ái khác của tôi, người bảo tôi tiếp tục truyền thống này. Vì lẽ đó, sẽ vô cùng lợi lạc với chúng talợi lạc với truyền thống ở đây và lợi lạc với các bạn, không chỉ hiện tại, mà còn trong các đời tương lai, khi tham dự về mặt vật lý, tinh thần và theo mọi cách, cho mọi người thấy lòng kính trọng của bạn dành cho Lama Sang và tình yêu thương dành cho Lama Sang và thậm chí hơn thế nữa, tình yêu của bạn dành cho Đức Phậtcon đường của bạn.

Tu viện Lung-ngon, ngày 5 tháng 1 năm 2020,

Hungkar Dorje

John Crigler ghi chép Anh ngữ.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

 

Nguồn Anh ngữ: History of the Winter Retreat and Related Matters of Longngon Monastery (http://www.hungkardorje.com/winterRetreat/HistoryoftheWinterRetreat.pdf).

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 136)
Năm 1971, Sangye Khandro, thiết tha được diện kiến Đức Dalai Lama, đã du hành bằng đường bộ trong năm tháng, cuối cùng đến được Dharamsala, Ấn Độ.
(View: 171)
Tôi được yêu cầu bình giảng về Thực Hành Senge Dongma Ngắn Gọn Của Kyabje Dudjom Rinpoche. Đây là một thực hành
(View: 226)
Những lợi lạc của kinh luân thường được nói đến trước kia; tuy nhiên, ngày nay, chúng sinh trong luân hồi thường chẳng thể thành tựu bất kỳ thực hành Pháp nào
(View: 432)
Pháp điển Đại Lạc (Mahāsukha) là một thí dụ cho thấy ảnh hưởng to lớn có dấu ấn quyết định của Bà La Môn giáo trong việc hành trì Mật giáo.
(View: 783)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(View: 629)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng
(View: 765)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(View: 1119)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(View: 1196)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(View: 1328)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(View: 1168)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(View: 1539)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(View: 1694)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(View: 1478)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(View: 2804)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(View: 2136)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(View: 3871)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(View: 2022)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(View: 2948)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(View: 2686)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(View: 2413)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(View: 3302)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(View: 2515)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(View: 2691)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(View: 2192)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(View: 2040)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(View: 2796)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(View: 1831)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(View: 3132)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(View: 2197)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(View: 4162)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(View: 2434)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(View: 2240)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(View: 2826)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(View: 4870)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(View: 2267)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(View: 3138)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(View: 1943)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(View: 2895)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(View: 2933)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(View: 2359)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(View: 3992)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(View: 3417)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(View: 2436)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(View: 2378)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(View: 2712)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(View: 2453)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(View: 2198)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(View: 2814)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(View: 2524)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(View: 2457)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(View: 2885)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(View: 3940)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(View: 2550)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(View: 3666)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(View: 3414)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(View: 5684)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(View: 2978)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(View: 4252)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(View: 5734)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM