Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Theo Dấu Chân Phật

09 Tháng Ba 202007:25(Xem: 5263)
Theo Dấu Chân Phật

THEO DẤU CHÂN PHẬT

Orgyen Tobgyal Rinpoche giảng ở Shravasti 20 tháng 3 năm 2015[1]
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

Theo Dấu Chân Phật

 

Tháng 3 năm 2015, Orgyen Tobgyal Rinpoche[2] lại một lần nữa đi hành hương quanh một vài trong số những địa điểm linh thiêng quan trọng nhất của Ấn Độ; duy nhất lần này với tư cách một người cố vấn cho Sogyal Rinpoche và một nhóm các đệ tử Rigpa.

Đó là một buổi sáng rực rỡ và là ngày cuối cùng trong chuyến hành hương, khi mà chúng tôi trải qua ở Vườn Cấp Cô Độc, địa điểm mà Đấng Giác Ngộ đã lưu lại lâu nhất. Vì thế, dĩ nhiên, nói về Giáo Pháp được xem là đặc biệt cát tường và Rinpoche không bỏ lỡ cơ hội quý báu này. Ở đó, Ngài nói với chúng tôi, bằng sự thẳng thắn như thường lệ, thực sự hành trì nghĩa là gì và cách thức chúng ta cần đảm bảo rằng chúng ta tiếp cận thực hành Giáo Pháp. Một chuyến đi lưu động về Giáo Pháp, quá khứ, hiện tại và tương lai.

 

1. SHRAVASTI (XÁ VỆ)

Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật. Đức Phật chỉ luôn làm lợi lạc hữu tình chúng sinh và vẫn luôn hoàn thành lợi lạc đó trong ba vô lượng kiếp, kể từ khi Ngài hình thành tâm giác ngộ quý báu cho đến khi Ngài đạt giác ngộ viên mãn. Tất cả những gì Ngài làm là giúp đỡ chúng sinh khác, điều mà nói thì dễ, nhưng nếu bạn thực sự suy nghĩ về ý nghĩa, điều đó vô cùng bao lasâu xa. Tại sao lại dễ? Bạn chỉ nói vài lời, “Phật giác ngộ viên mãn đã hoàn thiện các tích lũytiêu trừ các che chướng trong ba vô lượng kiếp để đạt giác ngộ”. Thật dễ dàng, phải vậy không? Nhưng bây giờ, hãy suy ngẫm về điều đó. Trước tiên, hãy tưởng tượng chiều dài của một Kalpa hay kiếp. Sau đó, nhân lên ba ‘vô lượng kiếp’ và bạn sẽ biết khoảng thời gianĐức Phật đã dùng để nỗ lựcgiác ngộ. Ngài không phải chỉ đơn thuần lang thang khắp nơi trong luân hồi. Được thúc đẩy bởi lòng bi, Ngài hành động để làm lợi lạc hữu tình chúng sinh, để chăm lo cho sự an lành của họ, chủ yếu bằng cách hoàn thiện sáu ba la mậtbố thí và v.v. Mặt khác, chúng ta thì cứ lang thang và lang thang …

Đầu tiên trong sáu ba la mậtbố thí. Vậy thì Đức Phật đã hoàn thiện bố thí như thế nào? Ví dụ, Ngài chặt đầu rồi cúng dường nó; sau đấy, Ngài chặt các chi, móc mắt và cũng cúng dường chúng. Đây là một thực hành rất khó, tuy nhiên, Ngài đã làm thế nhiều lần hơn những gì chúng tathể tính đếm. Và đây là cách mà Ngài hoàn thiện tất cả sáu ba la mật, luôn luôn được thúc đẩy bởi mong ước làm lợi lạc hữu tình chúng sinh. Đấy chính là hoạt động đưa Ngài đến sự thành tựu giác ngộ.

Khi tiến hành một nhiệm vụ, trước tiên, chúng ta đặt ra mục tiêu, sau đấy, hoàn thành nhiệm vụ đó. Giống như vậy, Đức Phật đã hoàn thành một đại dương các hoạt động Bồ Tát vì lợi ích của mọi hữu tình chúng sinh bao la như hư không và kết quả là Ngài đạt giác ngộ. Khi bạn đầu tư thời gian trong việc kinh doanh thế tục, kết quả là bạn trở nên giàu có hơn. Kết quả của đại dương các hoạt động Bồ TátĐức Phật đã hoàn thành khi là một Bồ Tátcông đức bao la không thể nghĩ bàn của một Bậc Giác Ngộ. ‘Công đức bao la không thể nghĩ bàn của một Bậc Giác Ngộ’ là kiểu công đức như thế nào? Đó là kiểu công đức mà Ngài có thể đem đến lợi lạc cho tất cả hữu tình chúng sinh. Ngài làm thế như thế nào? Ngài điều phục hữu tình chúng sinh bằng công đức lớn lao của thân và khẩu và sự bình đẳng lớn lao của ý giác ngộ và với những phẩm tính và hoạt động giác ngộ vĩ đại của Ngài. Năm điều này được gọi là Năm Bánh Xe Không Vơi Cạn Của Những Sức Trang Hoàng[3]. Với Đức Phật, chúng không bao giờ biến mất và không bao giờ kết thúc. Nhưng với hữu tình chúng sinh, đôi lúc chúng xuất hiện, đôi lúc thì không. Đôi lúc, chúng giúp đỡ chúng sinh, đôi lúc lại không, tùy thuộc vào các cá nhân liên quan và những thời điểm. Nó giống như mặt trời và trăng. Chúng luôn luôn trên bầu trời, nhưng đôi lúc chúng ta thấy chúng và lúc khác thì không. Một vị Phật hoàn thành lợi lạc của hữu tình chúng sinh bằng cách hóa hiện thân giác ngộ, bằng cách chuyển Pháp Luân với khẩu giác ngộ, bằng cách an trú ý giác ngộ trong sự cân bằng thiền định của đại bình đẳng và nhờ sự toàn tri bằng cách thấy tất cả chúng sinh. Và đó là điều Ngài làm trong hai mươi lăm mùa an cư mà Ngài lưu lại chính khu vườn này ở Xá Vệ. Dĩ nhiên, thêm vào đó, Ngài đã hiển bày tất cả các phẩm tính và hoạt động giác ngộ.

Việc Đức Phật dành thời gian ở đây vô cùng ý nghĩa. Theo những giáo lý của Thanh Văn thừa, một khoảnh đất mà trên đó, chỉ một bàn chân của Phật dẫm lên cũng cực kỳ linh thiêng. Vì thế, ở một nơi như chốn này, nơi mà Ngài đã sống hai mươi lăm năm, việc chúng ta nghĩ về Ngài và thọ nhận ân phước gia trì của Ngài thậm chí còn quan trọng hơn nhiều. Những môn đồ của Đại thừa và nhiều Kinh điển như Bát Nhã Ba La Mật Kinh miêu tả thế giới là có bốn lục địa và quan điểm này vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Quan điểm của Kim Cương thừa Mật chú Bí mật là mọi thứ xuất hiện đơn giản là sự hiển bày tự nhiên của trí tuệ nguyên sơ như được nhìn nhận bởi Đức Phật – nghĩa là mọi thứ xuất hiện không có chút bất tịnh, mà hoàn toàn thanh tịnh. Bởi bất tịnh là không thể, đàn tràng tự nhiên xuất hiện của trí tuệ nguyên sơ là cõi Tịnh độ Akanishtha với năm sự hoàn hảo. Và Akanishtha ở đây, ngay bây giờ. Đó là nơi chúng ta đang ở.

Chúng ta cực kỳ may mắn khi có cơ hội được đến một nơi như vậy và bởi chúng ta đang ở đây, chúng ta cực kỳ phước báu khi có cơ hội nói về Giáo Pháp.

2. CÁCH THỨC LÀ MỘT HÀNH GIẢ GIÁO PHÁP

Đầu tiên, chúng ta cần thừa nhận với bản thân rằng chúng ta là những hành giả Giáo Pháp. Trong thế giới này, có hai kiểu người: những người đồng thuận với Giáo Pháp và những người không. Điều mà chúng ta cần làm là nghĩ rằng, “Tôi là một hành giả Giáo Pháp”.

Ngày nay, có nhiều kiểu giáo lý phổ biến. Một trong số chúng, điều mà chúng ta đi theo, là giáo lý của Đức Phật. Trong nhiều cách tiếp cận mà Phật Pháp cung cấp, chúng ta đi theo cách tiếp cận Tây Tạng, điều không thấy xung đột nào giữa ba thừa và vì thế, thực hành cả ba cùng nhau. Nếu bạn không chắc chắn rằng bạn là một hành giả Giáo Pháp và nếu bạn không thừa nhận rằng bạn là một hành giả Giáo Pháp, chẳng điều gì giúp ích. Bạn có thể trông giống một hành giả Giáo Pháp, nhưng bạn sẽ không phải. Vì thế, hãy thừa nhận điều đó. Hãy cẩn thận suy nghĩ, để kiểm tra xem liệu điều đó có đúng không, sau đấy, thừa nhận với bản thân, “Tôi là một hành giả Giáo Pháp”. Làm vậy thì cực kỳ lợi lạc và thực sự giúp bạn từ bỏ các hành động tiêu cực. Nó cũng hữu ích nếu bạn cố gắng hoàn thành mười hành động tích cực [tức thập thiện]. Thực sự, nghĩ rằng “Tôi là một hành giả Giáo Pháp” đem đến lợi lạc lớn lao. Ngay cả khi bạn không tin tưởng tuyệt đối, nghĩ rằng bạn là một hành giả Giáo Pháp chắc chắn sẽ hữu ích. Khoảnh khắc bạn hành xử tiêu cực – và mọi người đôi lúc đều mắc lỗi – bạn sẽ có thể hối hận về điều đó. Nhưng ngay cả khi bạn không, hãy hoan hỷ và tha thiết xem bản thân là một hành giả Giáo Pháp để bạn sẽ trở thành kiểu người không bao giờ hành xử tiêu cực. Bất cứ điều gì xảy ra, bạn sẽ biết điều cần làm và điều cần tránh. Do đó, hãy bắt đầu nghĩ về bản thân là một hành giả Giáo Pháp.

Vì vậy, chúng ta cần trao cho Giáo Pháp tầm quan trọng thích đáng trong cuộc đời chúng ta. Điểm chính yếuGiáo Pháp làm lợi lạc chúng sinh khác, điều nghĩa là bạn không chỉ nghĩ về bản thân, mà còn hành động vì lợi lạc của mọi hữu tình chúng sinh. Sau đấy, với động cơ này, hãy thực hành Giáo Pháp càng nhiều càng tốt.

Điều hôm nay tôi muốn nói là về thực hành Giáo Pháp, chúng ta đôi lúc tham gia vào các hoạt động Giáo Pháp như một cách khoe mẽ, để chúng ta có thể khoe khoang về sự hành trì của bản thân, lấy ví dụ. Kiểu hoạt động này không đem đến nhiều lợi lạc. Giáo Pháp phải được áp dụng vào tâm. Chỉ khi Giáo Pháp thực sự hòa quyện hoàn toàn với tâm thì bạn mới là một hành giả Giáo Pháp chân chính.

Tất cả chư đạo sư uyên bácthành tựu, bắt đầu từ Đức Phật, đều nói điều tương tự: Mục đích của Giáo PhápGiáo Pháp điều phục tâm của mỗi cá nhân. Điều này cực kỳ quan trọng. Thực hành Giáo Pháp trong một trăm năm nhưng chẳng thấy sự thay đổi nào trong tâm là lãng phí thời gian. Các hoạt động tích cực, chẳng hạn lễ lạycúng dường, v.v. sẽ đem đến kết quả trong tương lai.

3. XẢ LY

Nếu bạn muốn hòa nhập những giáo lý này vào tâm, điều đầu tiên bạn phải suy nghĩ là “Tôi muốn được giải thoát khỏi luân hồi”. Đó là bước then chốt đầu tiên. Không có kiểu Phật quả nào có thể đạt được khi chúng ta duy trì trong luân hồi, đấy là lý do các giáo lý nói với chúng ta rất rõ ràng rằng xả ly – phát triển tâm xả ly – là một trong những bước quan trọng nhất trên con đường đến giác ngộ. Và bởi chúng ta cần cảm thấy sự xả ly chân chính, chúng ta cần quán chiếu về các khổ đau của luân hồi. Bằng cách suy nghĩ về việc có bao nhiêu khổ đau trong luân hồi, xả ly chắc chắn sẽ sinh khởi trong tâm bạn. Các giáo lý bổ sung rằng sự xả ly của chúng ta không nên giả tạo. Chúng ta cần trưởng dưỡng một nhận thức xả ly tự nhiên.

Bằng cách nào? Hãy bắt đầu bằng việc tạo ra sự xả ly. Hãy quán chiếu về các khổ đau của luân hồi. Cuối cùng, bạn sẽ thấy rằng trong luân hồi, chẳng có gì khác ngoài khổ đau. Hãy nghĩ về điều đó và tạo ra nhận thức đó trong tâm bạn. Nhờ sức mạnh của việc tạo ra nhận thức xả ly đó nhiều lần, một lúc nào đó, sự xả ly tự nhiên sẽ khởi lên. Đó là một trong những điểm quan trọng của con đường. Và dù bạn đi theo cách tiếp cận nào trong những cách tiếp cận ba thừa Giáo Pháp, bạn đều phải có sự xả ly. Đó là điều tuyệt đối quan trọng.

4. BỒ ĐỀ TÂM

Khi bạn đã thiết lập sự xả ly, cách tiếp cận tốt nhất và mạnh mẽ nhất để giải thoát bản thânchúng sinh khác khỏi luân hồiBồ đề tâm. Bồ đề tâm có hai khía cạnh: Bồ đề tâm nguyện và Bồ đề tâm hạnh – các bạn đều biết điều này. Đó là Bồ đề tâm.

Có ba cách tiếp cận để thực hành Bồ đề tâm dành cho những vị thượng, trung và hạ căn. Bạn có thể đạt giác ngộ trước, sau đấy đem mọi hữu tình chúng sinh đến giác ngộ sau bạn; hoặc bạn có thể làm cả hai cùng nhau bằng cách thực hành để đạt giác ngộ cho bản thân trong khi hành động để đem mọi hữu tình chúng sinh đến giác ngộ cùng bạn. Hoặc có cách tiếp cận của việc đưa mọi hữu tình chúng sinh đến giác ngộ trước bạn và chỉ khi vị cuối cùng đạt giác ngộ, thì bản thân bạn mới đạt trạng thái giải thoát.

Đó là chuyện nói thì dễ – chúng ta có thể thảo luận về nó trong nhiều ngày – nhưng thực sự hòa quyện nó vào tâm thì cực kỳ khó. Hãy nghĩ rằng: “Tôi trước tiên sẽ dẫn dắt hữu tình chúng sinh, vô số như hư không bao la, đến giác ngộ, sau đấy, bản thân tôi sẽ đạt Phật quả”. Nhưng thực sự cảm nhận nó là chuyện khó khăn. Và chúng ta luôn luôn có xu hướng nghĩ về sự giác ngộ của bản thân trước, điều tự thân nó cũng chẳng dễ dàng. Và nếu đó là cách bạn nghĩ, bạn đang thực hành Tiểu thừa. Nhưng điều mà chúng ta đang thảo luận ở đây là Đại thừa. Trong bất kỳ trường hợp nào, “Tôi phải ở đằng sau” là gốc rễ của thái độ này, điều khiến cho việc thực sự hòa quyện cách tiếp cận này vào tâm trở nên vô cùng khó khăn. Và hơn thế nữa, chúng ta phải thúc đẩy bản thân bằng ý nghĩ này, không dao động, khi tiến hành các hoạt động của một Bồ Tát. Có lợi lạc nào trong việc chỉ nghĩ rằng, “Tôi phải ở đằng sau”? Không!

Càng nghiên cứu các giáo lý, chúng ta càng hiểu thêm. Và chúng ta càng hiểu thêm, thực hành Giáo Pháp thực sự càng trở nên khó khăn. Nếu không phải vậy, điều đó nghĩa là bạn đang không thực sự hành trì.

Khi một người hiểu được thử thách từ việc thực hành các hoạt động của một Bồ Tát thực sự lạ thường đến thế nào và rằng kết quả là giác ngộ không thể tưởng tượng, khi mà các hoạt động của bạn với tư cách là một vị Phật thậm chí còn nản chí hơn của một Bồ Tát, nếu họ sau đấy nỗ lực hết sức để đi theo con đường này, người đó được gọi là một ‘Bồ Tát’. Quán chiếu về khổ đau của luân hồihoàn thành các hoạt động của một Bồ Tátcần thiết nếu bạn muốn hoàn thiện Bồ đề tâm. Nếu không, chỉ nói rằng, “Ồ đáng thương quá! Tôi lấy làm tiếc!” thì chẳng khác gì mánh khóe mà người bán hàng sử dụng để lừa gạt mọi người!

Để có thể thiền định về ‘tâm giác ngộ’, bạn cần một tâm bao lamở rộng. Vì thế, bạn phải mở rộng kiểu tâm bao la đó đến tất cả và phát tâm giác ngộ quý báu. Dĩ nhiên, ban đầu, bạn phải cố gắng tạo ra. Nhưng khoảnh khắc một nhận thức không tạo tác, tự nhiên về Bồ đề tâm khởi lên, bạn sẽ trở thành một Bồ Tát.

Hãy nhớ, Bồ đề tâm có hai khía cạnh: Bồ đề tâm tương đốiBồ đề tâm tuyệt đối. Chỉ bằng cách trước tiên thiền định về Bồ đề tâm tương đối thì bạn mới có thể phát khởi Bồ đề tâm tuyệt đối. Nếu bạn chẳng có ý tưởng gì về Bồ đề tâm tương đối, làm sao mà Bồ đề tâm tuyệt đối có thể khởi lên? Do đó, hãy thiền định về Bồ đề tâm tương đối trong thời gian dài; cuối cùng, kết quả – Bồ đề tâm tuyệt đối, điều về cơ bản là sự chứng ngộ tính Không – sẽ khởi lên. Nó khá giống với việc đi mà không ngừng lại cho đến khi bạn đến được đích. Bồ đề tâmcon đường Đại thừa chân chính.

Có hai truyền thống chính yếu để cử hành nghi lễ thọ Bồ Tát giới: truyền thống ‘tri kiến sâu xa’ của Văn Thù Sư Lợitruyền thống ‘hành động bao la’ của Di Lặc. Ngay cả khi bạn chưa thọ giới chính thức, nhưng đã thọ một quán đỉnh thì bạn đã thọ Bồ Tát giới, bởi không quán đỉnh nào được ban mà vị thọ nhận trước tiên không thọ Bồ Tát giới. Vì thế, hôm nay, không có ai ở đây chưa thọ Bồ Tát giới.

‘Bồ đề tâm’ là ‘tâm giác ngộ’ và mỗi người chúng ta phải kiểm tra tâm mình để xem liệu chúng ta có thực sự có một nhận thức về Bồ đề tâm. Nếu bạn thấy rằng bạn có, bây giờ, bạn cần phải tăng trưởng nó. Ban đầu, Bồ đề tâm của chúng ta giống như trăng non vào đêm thứ ba của tháng Âm lịch – giống như vầng trăng khuyết mỏng trên những bức tranh, thứ mà Đức Phật đang chỉ vào. Nhưng dù chúng ta bắt đầu với chút ít ỏi đến đâu, nó luôn luôn có thể được tăng thêm. Một đạo sư không biết liệu bạn có Bồ đề tâm hay không và đọc một bản văn cũng chẳng nói cho bạn biết. Không ai khác có thể nói liệu bạn có Bồ đề tâm hay không, chỉ bạn mới có thể.

Nhưng khi bạn kiểm tra tâm để đánh giá Bồ đề tâm của bạn, bạn sẽ cần một chút kiến thức và sự hiểu, thứ đến từ việc thọ nhận các giáo lýnghiên cứu bản văn – điều thực sự không dễ. Ngày nay, mọi người nghĩ họ là một Bồ Tát, phải vậy không? Nhưng mọi chuyện không phải thế. Điểm trọng yếu mà bạn cần biết là khi Bồ đề tâm chân chính sinh khởi trong tâm của một người chỉ trong một khoảnh khắc, người đó trở nên vĩ đại hơn một nghìn vị Tỳ Kheo và đáng được đỉnh lễcúng dường từ chư thiêncon người.

Vì thế, có nhiều điều cần hiểu. Dĩ nhiên! Nhưng điều quan trọng hơn là bạn kiểm tra tâm bạn! Nếu bạn làm thế, bạn có thể nhận ra rằng bạn chẳng có chút Bồ đề tâm nào! Và đó có thể là điều tốt nhất có thể xảy ra, bởi nó nghĩa là bạn có một sự hiểu về Bồ đề tâm thực sự là gì.

Bồ đề tâmlòng bi mẫn khoác lên mình nhiều màu sắc. Và ngày nay, có nhiều kiểu được gọi là thực hành Bồ đề tâm. Vài người nói rằng, “Ồ, tôi là một Bồ Tát, vì thế, tôi không ăn thịt.” Số khác nói, “Ồ, tôi sẽ thanh toán cho bạn!” và tưởng tượng rằng họ đang thực hành Bồ đề tâm. Nhưng điều bạn cần là Bồ đề tâm thực sự, kiểu Bồ đề tâm mà Tổ Tịch Thiên giải thích trong Nhập Bồ Tát Hạnh, tức là chăm sóc chúng sinh khác hơn bản thân. Không chỉ một hay hai chúng sinh mà tất cả hữu tình chúng sinh khắp hư không bao la. Và không chỉ cảm thấy xót thương với họ, mà thực sự mong muốn thiết lập họ trong Phật quả. Đó là điều bạn cần. Khi bạn có Bồ đề tâm thì bạn phải hành động dựa trên nó, tức là bạn giúp đỡ theo bất kỳ cách nào có thể, đúng không? Hãy làm bất cứ điều gì và mọi điều lợi lạc – tất cả ‘hoạt động của bốn kiểu’, tức tai, tăng ích, kính ái, điều phục. Khi bạn có Bồ đề tâm chân chính, bạn có thể nói dối, bạn có thể ăn trộm và bạn có thể giết người. Đó là điều mà chính Đức Phật đã nói.

Ngay bây giờ, trong thời đại suy đồi hiện nay, điều đặc biệt quan trọng là kiểm tra xem bạn có Bồ đề tâm không. Giáo Pháp của sự trao truyền và Giáo Pháp của sự chứng ngộ sắp tàn, nhưng nếu bạn có thể thiền định về và phát khởi một chút Bồ đề tâm, nó sẽ vẫn có chút lợi lạc.

Tôi đã có vài buổi nói chuyện rất thẳng thắn với những người đã thọ Bồ đề tâm giới và những vị cố gắng tuân theo các chỉ dẫn. Vài người trong số họ nói với tôi rằng họ phạm giới trọng của việc từ bỏ hữu tình chúng sinh năm hay thậm chí mười lần trong chỉ một ngày! Tôi nói tôi nghĩ điều đó rất tốt, bởi nó chỉ ra rằng họ biết điều họ đang làm.

Dẫu sao, Bồ Tát giới có thể dễ dàng thọ lại nếu bạn phá vỡ chúng. Nhưng bạn cần biết về việc phá vỡ chúng. Nếu bạn làm được thế, đó là dấu hiệu cho thấy bạn đang kiểm tra tâm bạn. “Ích lợi gì với tôi khi có nhiều đệ tử, / Nếu tôi không thể canh giữrèn luyện tâm mình?” Nhưng hầu hết chúng ta thì không. Nếu bạn làm được thế, nhiều ý nghĩ bắt đầu xuất hiện về đủ mọi chuyện. Nhưng khi bạn nghĩ, “Tôi là một Bồ Tát, tôi chưa từng phá vỡ giới nào trong các Bồ Tát giới gốc”, điều đó nghĩa là bạn dứt khoát chẳng biết bạn đang nói về điều gì. Chính sự kiêu ngạo của bạn đang nói. Bạn chỉ đang lừa dối bản thân. Vì thế, kiểm tra tâm bạn là điều quan trọng.

Khi bạn thực hành Bồ đề tâm, bạn có thứ gì đó để nhận ra, trong khi trong Đại Viên Mãn Dzogchen, chẳng có gì để thấy. Bồ đề tâm là thứ gì đó mà chúng ta nhận ra trong tâm và nếu thấy rằng chúng ta có thể nhận ra dù chỉ một chút ‘Bồ đề tâm’, chúng ta sau đấy có thể trưởng dưỡng niềm hoan hỷ và v.v. “Mong chư thiên và bán thiên cùng tất cả đều hoan hỷ!”. Nếu chúng ta thấy rằng bản thân chẳng có Bồ đề tâm, chúng ta phải phát khởi nó. Chúng ta có thể làm điều gì đó.

Dzogchen thì không giống vậy, đúng không? Nếu bạn đang không an trú trong trạng thái của Dzogpa Chenpo thì tất cả những gì bạn có thể làm là cầu nguyện rằng nó khởi lên. Nhưng chẳng có gì bạn có thể làm để tạo ra nó. Khi bạn thọ nhận một quán đỉnh, đạo sư giới thiệu bạn với bản tính của tâm, nhưng nếu bạn không nhận ra, tất cả những gì bạn có thể làm là cầu nguyện để nhận ra nó. Đấy là lý do tôi đang nói với các bạn rằng thực hành Bồ đề tâm thì khác với thực hành Dzogchen.

Dẫu sao, điều tôi đang nói là các bạn cần kiểm tra tâm mình, sử dụng sự thông tuệ của bản thân. Mọi hữu tình chúng sinh đều có một mức độ thông tuệ nào đó và khả năng biết một chút. Có sự khác biệt giữa các chúng sinh khác nhau và tất nhiên, một số thì thông minh hơn số khác. Ví dụ, con người có sự thông tuệ lớn lao. Làm sao chúng ta biết điều này? Bởi họ có thể chấp nhận điều tích cựcnhận ra rồi từ bỏ điều tiêu cực. Khi bạn thông minh, bạn có thể tiến hành mọi chuyện; bạn có thể sử dụng trí thông minh của mình để kiểm tra tâm.

Ai có sự thông tuệ lớn nhất? Đức Phật bất khả phân với Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Ngài là toàn tri, tức là Ngài biết tất cả. Sau Phật, những vị có sự thông tuệ lớn hơn được xem là sáng suốt hơn. Đặc biệt nếu sự thông tuệ đó đạt được nhờ thiền định. Nếu nó sau đấy được dùng để hiểu mọi chuyện, bạn có thể hiểu mọi thứ. Đức Phật nói rằng năm ba la mật đầu tiên – bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấnthiền định – đều là thứ yếu so với ba la mật thứ sáu, tức trí tuệ.

Khi chúng ta nói về tính Không – sự đơn giản vĩ đại thoát khỏi mọi sự tỉ mỉ quan niệmrốt ráo, chúng ta phải thừa nhận rằng nó vượt khỏi từ ngữ, vượt khỏi suy nghĩ và vượt khỏi miêu tả. “Không sinh, không diệt, tinh túy thực sự của hư không!”. Đó là tất cả những gì có thể nói về nó và tất cả những gì chúng ta có thể nghĩ về nó. Nếu bạn muốn hơn thế, nếu bạn muốn những sự hiểu sâu sắc hơn về chân lý tính Không, bạn sẽ cần sự thông tuệ khởi lên từ thiền địnhtrí tuệ chân chính. Đức Phật có thể hiểu tính Không. Vấn đề là, Ngài không thể giải thích nó cho hữu tình chúng sinh theo cách mà họ có thể hiểu. Vì vậy, quan điểm của tôi là chúng ta cần phát triển trí tuệ đến từ thiền định. Và với trí tuệ đó, chúng ta sẽ có thể hiểu tính Không.

Rất nhiều giáo lý và bản văn trình bày về Bát Nhã Ba La Mật. Giáo lý Kinh điển luôn nói rằng, “Như vầy tôi nghe, một thời …”. Ở đây, ‘một thời’ liên quan đến thời gian khi trí tuệ, thứ đến từ thiền định, nhận thức về tính Không trong tâm. Sự chứng ngộ như vậy là kết quả của nỗ lực tuyệt vời được dùng để lắng nghe và quán chiếu về những giáo lý này, thứ sau đó lại được dùng để thiền định về tính Không. Khi bất cứ hiện tượng nào được thiền định về sau đó bị ‘phá hủy’ hay được thấy là không-tồn tại, hành giả chứng ngộ trí tuệ chân chính. Đấy là tính Không và chẳng còn nơi nào khác để đi.

Trích dẫn liên quan ở đây là:

‘Khi thứ gì đó và sự không-tồn tại của nó

Cả hai đều thiếu vắng trước tâm,

Tâm khônglựa chọn nào khác:

đạt đến sự nghỉ ngơi hoàn hảo, thoát khỏi các quan niệm’.

Khi điều này dường như xảy ra, bạn lại phải kiểm tra tâm tỉ mỉ và hỏi xem, liệu nó có thực sự xảy ra, hay là không? Thật dễ để ngồi xuống với cái miệng há to, nhìn ngây ra vào hư không và nghĩ, “Đó là tính Không …”. Nhưng nếu thứ gì đó vỗ vào má bạn, dù rất nhẹ, bạn lập tức sẽ phản ứngvậy thì chẳng có tính Không nào ở đó, phải vậy không? Nếu khoảnh khắc mà má bạn bị tát, cái tát tan biến trong tiếng “Phộp!”, sau đấy là Không. Bạn nhận biết về cái tát và về cái má nhoi nhói, dĩ nhiên. Trí tuệ của bạn nhận ra nó. Nhưng không một dấu vết bám chấp nào liên quan. Nếu sau đó, cái tát được giải thoát trong cõi trí tuệ, thì thế đấy! Cái tát đã được giải thoát. Đấy mới là tính Không ‘chân chính’. Và đây là ví dụ bạn cần áp dụng cho mọi ý nghĩhoàn cảnh có thể.

Người phương Tây dường như nghĩ rằng khi họ thiền định, họ cần bước vào một trạng thái không có một ý nghĩ nào. Nhưng hãy nghĩ về nó xem. Một trong những phẩm tính của Phật là có kiến thức toàn tri về tất cả. Làm sao một vị Phật với kiến thức toàn tri đó lại không có các ý nghĩ? Vì thế, bạn có thực sự nghĩ rằng chúng ta cần không có các ý nghĩ?

Hầu hết người mới bắt đầu thấy rằng khi họ bắt đầu thiền định, họ có thêm nhiều ý nghĩ, đúng không? Do đó, họ lại cố gắng ngồi im, giữ hơi thở, nhắm mắt và làm mọi chuyện. Nhưng họ nhanh chóng từ bỏ và ngừng lại khi họ quyết định rằng điều họ đang làm chẳng thành tựu được gì – người ta nói rằng, “Hôm nay thiền định của tôi không tốt”. Và nếu có tiếng ồn hay bất cứ phá vỡ nào khi họ đang cố gắng thiền định, họ than phiền.

Thay vào đó, khi một ý nghĩ khởi lên, hãy cứ để vậy. Giống như bông tuyết nhanh chóng tan vào hồ nước bao la khi nó chạm vào nước, khi một ý nghĩ khởi lên, tích cực hay tiêu cực, nếu nó tan vào cõi giới của Rigpa – vị nhận thức được – đó là thiền định. Đó là trí tuệ chân chính.

Đấy là lý do Văn Thù Sư Lợi lại quan trọng đến vậy với chúng ta. Và ở đây, bạn cũng phải kiểm tra bản thân. Không cần phải thành tựu một Bổn tôn Văn Thù Sư Lợi bên ngoài: chính vị Văn Thù Sư Lợi bên trong chúng ta là người kiểm tra. Vì thế, chúng ta ‘sử dụng’ Văn Thù Sư Lợi. Khi chúng ta ‘thiền định’, trí tuệ nhận ra các hiện tượng không có sự tồn tại cố hữu.

Để làm điều này, có hai cách tiếp cận: thiền định phân tích của những học giả (Pandita) và thiền định ổn định của một Kusali, ‘người ăn xin’. Học giả là những vị đọc nhiều bản văn, họ nghĩ về điều họ đọc nhiều lần, để cuối cùng thiết lập tính Không. ‘Người ăn xin’ là những vị mà chư đạo sư đã giới thiệu cho họ bản tính của tâm và họ đã nhận ra nó. Sau đấy, họ tuân theo sự nhận ra đó hay ‘ổn định’ thiền định của họ dựa trên sự nhận ra đó.

Dẫu sao, trong cả hai trường hợp, hai sự tích lũy về công đứctrí tuệ đều cần thiết. Khi các tích lũy được hoàn thiện, những che chướng được tiêu trừ. Khi các che chướng được tiêu trừ – vì thế không còn ở đó – bạn sẽ thấy. Điều này cũng quan trọng.

Do vậy, đầu tiên bạn cần sự xả ly với luân hồi, điều mà bạn phát triển nhờ trải qua mọi giai đoạn của con đường dành cho các cá nhân căn cơ thấp hơn. Sau đấy, bạn có một nhận thức mạnh mẽ rằng, “Tôi cần thoát khỏi luân hồi”. Và ví dụ, chư Tăng giữ hơn 250 giới được thúc đẩy bởi ý nghĩ này. Thực sự, mọi cấp độ của thực hành Giáo Pháp đều được truyền cảm hứng bởi sự cố gắng thoát khỏi luân hồi này.

Nếu bạn thiền định về Bồ đề tâm hai phần thì bạn là một Bồ Tát. Các bản văn Trung Hoa và Tây Tạng giải thích điều này và một chút trong số những giáo lý đó thậm chí đã đến châu Âu và Mỹ. Trong bất kỳ trường hợp nào, bạn cần phải là một Bồ Tát. Ở đâu có một vị Bồ Tát, một trưởng tử của Đức Phật, thì giáo lý Đại thừa cũng hiện hữucon đường Đại thừa được thực hành.

Tôi từng đến Miến Điện, nơi tôi đã nói chuyện với một tu sĩ tốt. Ông ấy từng học một trường Anh ngữ và ông ấy bảo rằng Bồ đề tâm rất tốt, nhưng ngày nay thật khó tìm. Ông ấy nói không ai ngày nay dường như có thể thực hành Bồ đề tâm.

Tôi nói, “Tôi nghĩ có thể vài người vẫn làm thế”.

“Ở đâu?” ông ấy hỏi. Và tôi tắc tịt!

Ai đó đi cùng tôi nói rằng, “Dalai Lama!”.

Vị tu sĩ Miến Điện cười. Sau đấy, tôi hỏi, “Ông có biết về một Tỳ Kheo chân chính, thanh tịnh?”.

Ông ấy đáp rằng, “Điều đấy cũng khó. Nhưng cũng có vài vị gần như vậy”.

Tôi hỏi, “Điều gì khiến ông nói vậy?”.

“Bởi ngày nay là thời suy đồi – sự suy đồi của những giáo lý”.

Tôi hỏi, “Tại sao chúng lại đang suy đồi?”.

“Bởi công đức của hữu tình chúng sinh đang cạn kiệt”, ông ấy đáp và bổ sung rằng, “Vì thế, rất khó để là một tu sĩ chân chính. Và thậm chí còn khó hơn để phát khởi Bồ đề tâm thanh tịnh”.

“Ngày nay, chúng tôi không nghe nói về bất kỳ ai trong số quý vị, những người Tây Tạng, đi bộ đây đó, cầm cốc sọ chứa đầy máu – giống như những đại thành tựu giả; quý vị không có những hành giả như vậy nữa. Các đại thành tựu giả thường bay trên trời, phải vậy không? Nhưng bây giờ thì sao? Các giáo lý vẫn tồn tại, Giáo Pháp vẫn vậy, nhưng chúng ta sống trong thời kỳ khi mà giáo lý suy giảm”. Đó là điều ông ấy đã nói. Ông ấy tự nêu ra vấn đề, tôi thì chẳng nói gì về nó cả.

Với tôi, cách tiếp cận Đại thừa vẫn dễ hơn một chút so với Tiểu thừa. Trước hết, Đại thừa không phức tạp bởi hàng trăm giới của Tiểu thừa; và không cần phải chú ý đến các truyền thống khác nhau. Khi các giới bị phá vỡ, chúng cũng dễ dàng phục hồiĐại thừa giới thực sự có thể được phục hồi. Khi Bồ đề tâm của bạn suy giảm, bạn có thể thọ giới lại, nhiều lần, lặp đi lặp lại. Gốc rễ của Bồ đề tâm là không từ bỏ hữu tình chúng sinh, điều ít nhất là làm lợi lạc bạn, vì thế, nó vốn đã tích cực. “Tôi phải giải thoát mọi hữu tình chúng sinh” là “chuyện lớn”, nhưng chúng ta chưa phải ở cấp độ đó. Nếu tôi không thể giải thoát mọi hữu tình chúng sinh, liệu sự không thể đó có làm hại tôi? Không! Dĩ nhiên, chúng ta cần Bồ đề tâm, nhưng nếu chúng ta không thể phát khởi nó, cũng ổn thôi chúng ta không thể và không có điều gì chúng ta có thể làm về nó. Chúng ta cần suy nghĩ giống như một Bồ Tát, ngay cả khi chúng ta không thể thực sự làm điều đó.

Cuối cùng, chúng ta phải có thể cúng dường đầu và các chi như một hành động bố thí. Nhưng chỉ dẫn dành cho các Bồ Tát mới bắt đầu là trước tiên, tốt hơn là không cố gắng. Nếu bạn làm thế, nó có thể gây ra những vấn đề. Nghĩa là trưởng dưỡng Bồ đề tâmdự án dài hạn và bạn cần vun đắp các thực hành Bồ Tát một cách chậm rãi.

Ngày nay, các giáo lý chân chính đang biến mất nhanh chóng, nhưng chúng thực sự vẫn tồn tại, bởi vẫn có những người biết về Giáo Pháp và có thể nói về Giáo Pháp. Vấn đề là không ai thực sự thực hành. Thành thật mà nói, trong những hành giả Kim Cương thừa, không có đại thành tựu giả nào nữa. Không ai có thể hiển bày các dấu hiệu chứng ngộ – nếu có ai đó thì chúng ta sẽ biết. Nhưng ngày nay mọi chuyện là như vậy đấy.

Và ngày nay, bạn cũng có thể quên đi việc tìm ra một A La Hán chân chính. Những Tỳ Kheo tốt cũng hiếm – ít nhất là trong truyền thống Tây Tạng. Tôi không biết về những tu sĩ Theravada, nhưng những người Tây Tạng đắp y cũng đang biến mất nhanh chóng. Và đó là lý do tôi nghĩ các giáo lý sẽ phát triển rộng khắp hơn thông qua cách tiếp cận Bồ Tát.

Ngoài ra, Bồ Tát giới lần đầu tiên được thọ trước một vị thầy, nhưng cũng có thể trước một sự hỗ trợ, chẳng hạn một bức tượng. Điều đó khiến Bồ đề tâm trở thành một thực hành dễ dàng hơn đôi chút.

Ngoài ra, bởi chúng ta đều đã thọ nhận các quán đỉnh, chúng ta phải thực hành Kim Cương thừa Mật chú Bí mật càng nhiều càng tốt. Gốc rễ của Kim Cương thừa Mật chú Bí mậtrèn luyện trong nhận thức thanh tịnh – điểm quan trọng nhất với một hành giả Kim Cương thừa. Và sau đấy thì có thiền định Dzogchen. Người phương Tây các bạn thích thiền định, đúng không?

Tôi nghĩ rằng truyền thống quán đỉnh sẽ nhanh chóng biến mất. Tại sao? Bởi ngày nay rất hiếm vị đạo sư (Lama) có năng lực ban các quán đỉnh? Có ai nào? Bạn có thể đếm chư vị bằng những ngón tay trên một bàn tay. Tại sao lại hiếm đến vậy? Chẳng phải là tất cả Lama đều có thể ban các quán đỉnh? Đúng vậy, tất cả Lama đều có thể trải qua những cử chỉ của việc ban các quán đỉnh, nhưng những vị có thể thực sự thiền định về đàn tràng (Mandala) của sự thanh tịnh bất tận của tất cả những gì xuất hiệntồn tạigiải phóng bám chấp nhị nguyên của các đệ tử thông qua quán đỉnh, thì hiếm. Khi vị đạo sư ban quán đỉnh, Ngài phải bất khả phân với Bổn tôn chính của Mandala. Nếu Ngài không thể làm điều đó, Ngài chẳng thể ban quán đỉnh. Nếu quán đỉnh không thể được ban, thì đó là kết thúc của Kim Cương thừa Mật chú Bí mật – đó là kết thúc của những giáo lý này.

Tuy nhiên, ngày nay, tất cả Mật điển có thể nằm gọn trong một chiếc máy tính – nhưng mục đích là gì? Vì thế, chúng ta đang ở trong kiếp cuối cùnggiai đoạn cuối cùng trong thời kỳ này, khi mà những giáo lý, thứ vẫn còn khá nguyên vẹn, vẫn có sẵn nhưng ít có thể tiếp cận hơn nhiều. Mặc dù chúng đang gần đến tận cùng, những giáo lý vẫn hiện diện trên thế giới này. Do đó, với những vị sinh ra trong thời kỳ như vậy, thiền định hay nghĩ về các giáo lý theo cách mà tôi vừa giải thích có thể thực sự lợi lạc.

Khi thiền định, nếu bạn lại quán chiếu về các khổ đau của luân hồi và phát triển nhận thức xả ly, điều đó sẽ lợi lạc. Nếu dựa trên sự xả ly, bạn thiền định về lòng bi mẫn thì bạn sẽ trở thành một Bồ Tát, trưởng tử của Đức Phật. Bạn cũng cần biết rằng có các cấp độ Bồ Tát khác nhau. Trước tiên, bạn trở thành một Bồ Tát nhỏ và như thế, bạn cần thiền địnhphát khởi trí tuệ. Sau đấy, bạn phải phát triển trí tuệ, sự thông tuệ của bạn. Bằng cách nào? Nhờ suy nghĩ! Bằng cách kiểm tra bản thân! Nếu bạn dành thời gian với tâm nhiều như thời gian dành cho các thiết bị điện tử, không nghi ngờ gì, bạn sẽ thực sự thấy được sự tiến bộ, từ tuần này cho đến tuần sau! Tâm bạn sẽ cải thiện, nhờ trí tuệ. Vì vậy, bạn phải sử dụng trí tuệ và sự thông tuệ của bản thân. Và bởi tất cả các bạn có lẽ đều là những hành giả Kim Cương thừa Mật chú Bí mật, bạn cũng cần vun bồi nhận thức thanh tịnh.

Hành giả Rigpa luôn bắt đầu thực hành của họ bằng Những Đoạn Kệ Tám Đấng Cát Tường. Trong đoạn đầu tiên có dòng, “… mọi sự xuất hiệntồn tại đều hoàn toàn thanh tịnh, bản chất tự nhiên hoàn hảo”, điều nghĩa là mọi thứ xuất hiện và mọi thứ tồn tại hoàn toàn thanh tịnh từ nguyên sơ. Bản văn tiếp tục bằng cách nói rằng những Đấng Chiến Thắng và tất cả Bồ Tátđại an trụ khắp mười phương. Vì thế, chúng ta cầu khẩnđỉnh lễ tất cả chư Phật và Bồ Tát – tám Như Lai, tám Bồ Tát, tám biểu tượng, tám thiên nữ và tất cả các chuỗi ‘tám’. Đổi lại, chúng ta thỉnh cầu rằng mọi điều chúng ta làm sẽ đều tiến triển tốt đẹp. Chỉ khi mọi thứ xuất hiệntồn tại đều thanh tịnh thì một sự gia trì mới có thể ‘khiến’ nó thanh tịnh; nếu vốn đã không có sự thanh tịnh nào, làm sao một sự gia trì có thể khiến bất kỳ thứ gì trở nên thanh tịnh? Ai có thể trao sự thanh tịnh đó? Đấy là điều bạn cần hiểu.

Tôi đã hứa giúp Sogyal Rinpoche trong chuyến hành hương này và tôi đã làm như lời hứa. Ngài yêu cầu tôi giảng dạy và tôi nói tôi sẽ làm hết sức. Dù nó có lợi lạc hay không, mọi chuyện là vậy đấy! Hôm nay là ngày cuối trong chuyến hành hương của chúng ta. Chiều nay, chúng ta cùng nhau tiến hành [cúng dường] Tsok và đó là kết thúc. Ngày mai, chúng ta sẽ ở Delhi.

Gyurme Avertin chuyển dịch Tạng-Anh; Janine Schulz hiệu đính.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Nguồn Anh ngữ: http://all-otr.org/public-talks/20-how-to-walk-in-the-footsteps-of-the-buddha.

[2] Theo Rigpawiki (https://www.rigpawiki.org/), Orgyen Tobgyal Rinpoche sinh năm 1951 ở Nangchen, Kham, miền Đông Tây Tạng. Ngài là con trai của Neten Chokling Rinpoche đời thứ ba. Mặc dù nổi tiếng là Gyalchen Tulku, hóa thân hoạt động của Tổ Taksham Nuden Dorje, Ngài không được chính thức công nhận là một vị Tulku – đạo sư tái sinh – khi còn trẻ, bởi người ta nói rằng điều này sẽ gây ra nhiều chướng ngại cho cuộc đời Ngài. Ngài là anh trai của Khyentse Yeshe Rinpoche – Jamyang Gyaltsen và Dzigar Kongtrul Rinpoche và được trìu mến gọi là Abu Rinpoche (Abu nghĩa là anh trai trong phương ngôn vùng Kham).

[3] Theo Rigpawiki, Năm Bánh Xe Không Vơi Cạn Của Những Sức Trang Hoàng hay Những Bánh Xe Không Vơi Cạn Của Những Sức Trang Hoàng Về Thân, Khẩu, Ý, Phẩm Tính Và Hoạt Độngthuật ngữ Mật điển Vô Thượng Du Già dùng để diễn tả giác ngộ, quả vị trọn vẹn của Mật thừa và thường được dùng để nói về thân, khẩu và ý của vị đạo sư.

Đó là một cách để miêu tả những vị đã đạt được sự hoàn thiện trọn vẹn của giác ngộ bằng cách nhắc đến các phẩm tính của chư vị: thân, khẩu, ý, phẩm tính và hoạt động giác ngộ. “Bánh Xe” nhắc đến các phẩm tính trùm khắp của chư vị, bởi chúng bao trùm tất cả mọi thứ. Theo truyền thống, “bánh xe” đem đến cảm giác về không vơi cạn bởi theo nguyên tắc, nó có thể lăn trên mặt đất và khoảng cách mà nó bao phủ không bị giới hạn bởi chính nó. “Những Sức Trang Hoàng” liên quan đến sự hiển bày của thân, khẩu, ý, phẩm tính và hoạt động [giác ngộ] này. “Không Vơi Cạn” liên quan đến sự thật rằng chư vị luôn luôn làm lợi lạc hữu tình chúng sinh, liên tục và không ngừng nghỉ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 183)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 185)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 309)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 651)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 660)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 775)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 751)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1054)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1276)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1090)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2373)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1765)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3469)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1585)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2531)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2309)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 1951)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2911)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 1978)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2344)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1764)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1655)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2388)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1467)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2780)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1824)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3739)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2073)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1927)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2462)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4420)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1870)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2781)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1604)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2499)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2595)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 1998)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3573)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3021)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 1957)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 1985)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2316)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2022)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1858)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2421)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2079)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2124)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2530)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3601)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2172)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3282)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 2923)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5200)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2576)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3859)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 3812)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2720)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2460)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2669)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
(Xem: 3658)
Với những vị nhấn mạnh duy nhất vào việc trưởng dưỡng Bồ đề tâm trong cuộc đời, lời khuyên thích hợp cho họ khi tiến gần đến cái chết là nương tựa năm sức mạnh để định hướng lối đi của họ đến đời sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant