Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Terton Sogyal

22 Tháng Ba 202012:39(Xem: 3858)
Tiểu Sử Terton Sogyal

TIỂU SỬ TERTON SOGYAL

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

 Tinh Túy Của Kim Cương Thừa

Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.

Trong các hóa thân trước đó, Ngài đã xuất hiệnvô số Bồ TátTrì Minh Vương vĩ đại, bao gồm Bồ Tát Kim Cương Tạng, vị đã kết tập những giáo lý Dzogchen được Phật Phổ Hiền ban ở cõi Akanistha. Sau đấy, Ngài xuất hiện là dì và mẹ kế của Phật Thích Ca Mâu Ni – Prajapati Gotami, vị Tổ của Ni đoàn và ở Tây Tạng, Ngài xuất hiện là Nanam Dorje Dudjom, Trophu Lotsawa[2] và Rigdzin Godemchen[3] (1337-1408) vĩ đại, vị Tổ của truyền thống Kho Tàng Phương Bắc (Changter).

Ngài sinh vào năm Hỏa Thìn thuộc chu kỳ sáu mươi năm thứ mười bốn (tức năm 1856) ở Thượng Nyarong, Kham. Cha của Ngài là ông Dargye từ gia đình Shyipa và mẹ của Ngài là bà Orgyen Drolma.

Ngài nhanh chóng học đọc và viết và bởi Ngài cảm thấy chán ghét những cách thức của thế gian, Ngài tìm kiếm những giáo lý từ Đức Nyala Pema Dundul[4] và từ Patrul Rinpoche[5] cũng như Khenpo Pema Vajra[6]Tu viện Dzogchen[7]. Khi Ngài lần đầu tiên đến đỉnh lễ Đức Nyala Pema Dundul, khi mà Ngài vẫn còn rất trẻ, vị đạo sư vĩ đại đã cho Ngài xem vài trước tác bằng chữ Lantsa và Ngài nhận ra chữ ‘sa’ ngay lập tức. Đức Nyala Pema Dundul xem đây là dấu hiệu rằng chẳng có ai vĩ đại hơn Ngài trên trái đất này[8]. Những đạo sư này công nhận cậu bé là một hóa thân với khả năng phi phàmyêu cầu rằng cậu bé được gửi đến một Tu viện, nhưng cha cậu không cho phép đứa con trai duy nhất rời nhà và khăng khăng rằng cậu sẽ tiến hành những theo đuổi thế tục. Không lâu sau, ngày nọ khi Ngài đang ra ngoài đi săn, Ngài thấy chữ viết Dakini khi ngắm qua cây súng trường của mình và nhanh chóng bị ốm. Khi Ngài được chữa khỏi căn bệnh này, Ngài cảm thấy vô cùng chán nản với mọi hoạt động thế gian. Cha Ngài lại hướng dẫn Ngài đi săn một lần nữa, nhưng Ngài có giấc mơ mà trong đó, Nữ Hộ Pháp Mật Chú Ekazati[9] xuất hiện và đâm vào tim Ngài bằng chiếc răng trắng duy nhất của Bà ấy. Sau khi Ngài lại ốm một lần nữa, một lễ tiên tri được cử hành đã chỉ ra rằng Ngài cần thực hành Giáo Pháp; vì thế, cha Ngài cuối cùng cũng mủi lòng.

Ngài đến ẩn thất xa xôi, nơi Ngài khám phá một kho tàng tâm (Gongter) cho thực hành Không Hành Nữ mặt sư tử – Senge Dongma và đã viết lại. Ngài nhận được chỉ dẫn từ Lama Sonam Thaye và tiến hành các thực hành sơ khởi Longsal Dorje Nyingpo dưới sự dìu dắt của vị này, thực hành với sự tinh tấn lớn lao.

Từ năm 13 đến 18 tuổi, Ngài duy trì nhập thất. Trong thời gian này, Ngài trực tiếp thấy được nhiều chuyện nhờ sức mạnh thấu suốt. Ví dụ, một dịp, Ngài thấy rõ ràng một lữ khách cưỡi ngựa ở khoảng cách rất xa với ẩn thất của Ngài, người đang đi về phía Ngài. Dọc đường, ông ấy dừng lại để nghỉ ngơi và khi xuống ngựa, chiếc cốc của ông ấy rơi khỏi túi. Rất lâu sau, khi lữ khách đến chỗ Terton Sogyal và lấy cốc ra để dùng trà, ông ấy mới nhận ra rằng nó đã mất. Terton Sogyal bảo ông ấy cách thức và nơi mà ông ấy làm mất nó và người đàn ông sau đó đã tìm thấy nó ở chính chỗ ấy. Trong lúc nhập thất, Ngài đã giải mã một Terma dưới dạng chữ viết được mã hóa của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Sau khóa nhập thất, Ngài du hành đến [Tu viện] Kathok[10] cùng với Lama Sonam Thaye và những vị khác và thọ nhận các quán đỉnh từ Đức Tenpe Gyaltsen và nhiều trao truyền khác từ Kathok Getse Tulku (vị tái sinh của Đức Gyurme Tsewang Chokdrup). Khi Ngài thọ nhận những chỉ dẫn về Mật điển Guhyagarbha, toàn bộ sự xuất hiệntồn tại khởi lên như là sự hiển bày của trí tuệ nguyên sơ thanh tịnh.

Ngài đã phát lộ và giải mã kho tàng Phổ Ba Kim Cương Yang Sang Tropa và sau đấy, dành năm năm để thực hành Pháp tu này như được chỉ ra trong hướng dẫn tiên tri (Khajang). Cuối cùng, Ngài cúng dường Terma này lên Đức Jamyang Khyentse Wangpo[11] vào ngày Hai mươi mốt tháng Tám năm Mộc Thân (1884) đúng như bản văn Terma tiên đoán. Đức Jamyang Khyentse tuyên bố Terton Sogyal là một Terton chân chínhban cho Ngài các quán đỉnh. Khi họ cử hành lễ cúng dường Tsok cùng nhau, một hộp kho tàng xuất hiện ở giữa đàn tràng. Sau đấy, Terton Sogyal thọ nhận nhiều giáo lý từ Đức Jamyang Khyentse, bao gồm các chỉ dẫn về thực hành Chetsun Nyingtik, điều mà Ngài đã ghi chép lại.

Kế đó, Ngài đến Dzahka Sangak Rabten Ling và thọ nhận những chỉ dẫn về các thực hành sơ khởithực hành chính yếu Longsal Nyingpo từ Choktrul Rinpoche Kunzang Namgyal[12]. Trong lúc ở đó, Ngài giải mã một pho Terma liên quan đến Yangdak Heruka.

Sau đấy, Ngài đến thọ nhận chỉ dẫn về Longchen Nyingtik[13] từ đệ tử của Patrul Rinpoche – Đức Nyoshul Lungtok Tenpe Nyima[14]. Sau khi thọ nhận chỉ dẫn về thực hành Ngondro, Ngài học thuộc các bản văn về chỉ dẫn nhập thất và đưa chúng vào thực hành. Ngài dần dần thọ nhận mọi chỉ dẫn về Dzogchen Nyingtik và thấu triệt tất cả. Ngài đạt được sự thành công trong thực hành sơ khởi Dzogchen về sự tịnh hóa môi trường nhờ chủng tự HUNG đến mức Ngài có thể khiến những chiếc bình vỡ tan đơn giản nhờ sức mạnh quán tưởng. Trong suốt thời gian này, Ngài chẳng có tài sản nào ngoại trừ bộ y trắng của một Yogi và sống một mình trong rừng, thực hành ngày đêm.

Sau khoảng thời gian thân cận Đức Nyoshul Lungtok, Ngài trở về Dzahka và giải mã một nghi quỹ Mã Đầu Minh Vương. Ngày nọ, Ngài du hành đến địa điểm kho tàng Đá Trắng (Drakkar), biết rằng có một kho tàng cần được phát lộ ở đó. Lúc bình minh, Ngài thấy một cánh cửa ở phía đối diện của núi đá, nhưng không thể mở nó ra khi sử dụng một viên đá hay một dao Phổ Ba; vì thế, Ngài tìm được một chỗ nghỉ thích hợp và đã đi ngủ. Ngài bị đánh thức sau đó bởi một tiếng ồn lớn và thấy rằng núi đá đã tự nứt ra, tạo ra một lỗ đủ lớn để nhét tay Ngài vào trong. Khi đưa tay vào trong và kéo ra, Ngài đã có thể mở được cánh cửa và phát lộ một hang động bên trong bao la, trong đấy có một hộp sắt lớn. Bên trong hộp này, Ngài tìm ra mũ, áo choàng không tay màu đen, chày và chuông, Yabdar với vàng được viết trên đó, dao Phổ Ba và hai đồ hình của Tổ Nanam Dorje Dudjom.

Sau đấy, Ngài thọ nhận những giáo lý chi tiết về Mật điển Guhyagarbha từ Mipham Rinpoche[15] trong nhiều tháng liền.

Năm Kim Thìn (1880), Ngài giải mã một bản văn gọi là Yangjang Nekyi Demik và du hành đến [Tu viện] Dzogchen. Đến nơi, Ngài thưa với Khenpo Pema Vajra rằng Ngài ở đó để phát lộ Tsa Sum Pema Nyingtik và kể cho vị này lịch sử của những giáo lý mà Guru Rinpoche đã giao phó cho Nanam Dorje Dudjom ở [Tổ đình] Samye vào mùng Mười năm Thủy Thân Đực. Khenpo vô cùng hoan hỷ và nói rằng, “Con phải phát lộ Terma này. Và con phải đưa Ta đi cùng khi làm thế”. Terton và Khenpo đã du hành cùng nhau đến Rudam Pema Thang, nơi họ cử hành một lễ cúng dường Tsok Rigdzin Dupa [Tập Hội Trì Minh] cùng nhau và sau đó, đến một hang động phía trước Núi Palchen Drubpa. Họ đã đến địa điểm kho tàng nhưng thấy rằng ở đó có con rắn cuộn lại quanh lối vào. Terton Sogyal nhận ra con rắn là vị bảo vệ Terma Lutsen Yutrapchen và buộc nó phải tách ra, cho phép họ tiếp cận với địa điểm. Có ba hộp bên trong, nhưng Terton Sogyal chỉ lấy hộp chứa Tsa Sum Pema Nyingtik.

Bởi những ước nguyện quá khứ, Khenpo Pema Vajra và Terton Sogyal trở nên hợp nhất trong tâm trí tuệ. Lần nọ, Khenpo đề nghị rằng họ cử hành một lễ gia trì thuốc (Mendrup) cùng nhau. Họ thiếu một loại thuốc được gọi là Arura (tức mận anh đào), vì vậy, Terton Sogyal nói rằng Ngài sẽ đi tìm một ít. Khenpo đi cùng với Ngài. Họ đến vài bụi cây gần Shri Singha và thấy một con rắn với sọc vàng và ngửi thấy mùi hương Arura mạnh mẽ. Họ đào được loại thuốc này như một kho tàng và sau đấy, niêm phong cửa kho tàng một lần nữa bằng cách che phủ nó bằng những bụi gai. Khenpo nói với Terton Sogyal, “Việc con có thể hoàn thành bất cứ điều gì con muốn như vậy thật tuyệt diệu. Đó chắc chắn là dấu hiệu cho thấy con đã đạt được sự làm chủ trọn vẹn mọi điều xuất hiện và tồn tại”.

Tiếp đấy, Rashar Khenpo Kunzang Sonam tán thán sự hiểu của Terton Sogyal về Trung Đạo sau khi trao cho Ngài những giáo lý về chương chín của Nhập Bồ Tát Hạnh.

Lần nọ, Terton Sogyal bị ốm nặng. Terton Rangrik Dorje[16] và Dzahka Choktrul viếng thăm và cử hành những lễ quán đỉnh trường thọ và dâng thuốc. Bởi lòng từ của chư vị và các quán đỉnh trường thọ được ban bởi Đức Jamyang Khyentse Wangpo ở [Tu viện] Dzongsar vào năm Tuất (1886), Ngài bình phục và sống tại Ẩn thất Garje trong nhiều tháng.

Ba mươi ba tuổi, Ngài du hành đến Konjo cùng với Atrin Demchok và ở đó, vào ngày Hai mươi lăm tháng Hai năm Thổ Tý Đực (1888), Ngài phát lộ nhiều Terma, bao gồm một pho giáo lý Quán Thế Âm và một bức tượng nhỏ (Kutsab) Quán Thế Âm trong hình tướng Khasarpani.

Cũng năm đó, Đức Gyalwa Thubten Gyatso[17], tức vị Dalai Lama thứ mười ba, đã nhiều lần yêu cầu Terton Sogyal đến Lhasa vì lợi ích của Tây Tạng nói chung và giáo lý nói riêng; và tiên đoán rằng nếu Ngài đến và sao chép những cuộn kinh trong pho Terma Quán Thế Âm mới phát lộ trong Chùa lớn của Lhasa và ở Potala, điều đó sẽ đem đến lợi lạc lớn lao cho giáo lýchúng sinh khắp nơi. Bên cạnh đó, Terton Sogyal biết rằng đã đến lúc Ngài phát lộ nhiều Terma mới ở những địa điểm kho tàng dọc đường đến Lhasa và ở miền Trung Tây Tạng; và do đó, Ngài khởi hành đến Lhasa cùng với Tharchin và vài người khác. Như tiên đoán, Ngài tìm ra nhiều Terma trong hành trình.

Sau khi đến Lhasa vào tháng Chín, Ngài cử hành nhiều lễ cúng dường Tsok nhân lễ kỷ niệm Phật trở về từ cõi trời (Lha Bab Duchen). Tiếp đấy, Ngài sống trong Chùa Rasa Trulnang và giải mã một phần của pho Quán Thế Âm được phát lộ từ Konjo và những Terma Ngài lấy từ hồ Bí Mật Không Hành Nữ trên đường đến Lhasa. Những phần thuộc về cấp bên trong và bí mật của pho Quán Thế Âm được giải mã ở Potala.

Từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, khi mà Terton Sogyal trao cho Đức Dalai Lama mọi giáo lýquán đỉnh liên quan đến các Terma này, tâm trí tuệ của hai vị đạo sư vĩ đại này đã hòa làm một.

Du hành đến Yarlung Sheldrak, Terton Sogyal khám phá những cuộn kinh Terma về Lama Kundu Ngodrup Gyatso, thứ được chính tay Đức Bà Yeshe Tsogyal viết lại. Khi Ngài dâng chúng lên Đức Dalai Lama ở Norbulingka, Đức Dalai Lama đích thân giải mã Kusum Rigdu Tukdrup Yishyin Terdzod và hướng dẫn Sakya Dakchen Dorje Chang giải mã những cuộn còn lại. Khi điều này được hoàn tất, Terton Sogyal ban các quán đỉnhchỉ dẫn cho cả Đức Dalai Lama và Sakya Dakchen.

Ngài cũng lấy được những cuộn kinh cho pho Terma Tukdrub Trinle Yangnying Yishyin Norbu từ bên dưới bức tượng Mã Đầu Minh Vương trong chùa Rasa Trulnang vĩ đại và cử hành rất nhiều lễ cúng dường Tsok và dâng cúng dường tại các địa điểm hành hương quan trọng ở miền Trung Tây Tạng và làm lợi lạc nhiều đệ tử may mắn.

Khi trở về từ Lhasa, Ngài sống ở Trom Chogar, nơi Ngài thọ nhận những quán đỉnh và trao truyền cho Nyingma Kama từ Lama Lungtok.

Năm Kim Mão (1891), Đức Dalai Lama thông qua vị tiên tri Nechung biết rằng Terton Sogyal đã phát lộ một bức tượng nhỏ (Kutsab) Guru Rinpoche gọi là “Như Ý Bảo Châu Giải Thoát Nhờ Nhìn Ngắm” (Thongdrol Yishyin Norbu) và có một tiên tri tuyên bố rằng nó cần được lưu giữ ở Lhasa. Terton Sogyal được yêu cầu đưa bức tượng đến Lhasa và vị tiên tri Nechung đã gặp Ngài trên đường, ở nơi gọi là Gashok. Tại đó, họ cử hành lễ cúng dường Tsok và thực hành thánh hóa (Rabne) cùng nhau.

Họ đến Lhasa vào tháng Chín. Sau đó, vào ngày Hai mươi hai, ngày kỷ niệm Phật trở về từ cõi trời, bức tượng Kutsab được đưa đến chùa chính, nơi nhiều kẻ may mắn cung nghênh giữa khói hương. Các lễ thánh hóa Rabne và Trusol được cử hành và một lễ cúng dường Tsok được tiến hành trước sự hiện diện của Đức Dalai Lama, vị tiên tri Nechung, Minling Trichen, Dzogchen Rinpoche và đại tập hội chư Tăng.

Vào mùng Một tháng Giêng năm Thủy Thìn (1892), Terton Sogyal lấy những cuộn kinh Khandro Sangwa Yeshe Zabtik từ một hang động gọi là “Mật Động Của Không Hành Nữ Đại Bi” ở Dzongrong.

Terma Phổ Ba Kim Cương Yang Nying Pudri (Dao Tinh Túy Bí Mật Nhất), bao gồm một pho giáo lý Terma và chất liệu Terma, được giao phó cho năm trong số những đệ tử của Guru Rinpoche: Kharchen Palgyi Wangchuk, Langchen Palgyi Senge, Nubchen Sangye Yeshe, [Nanam] Dorje Dudjom và Shubu Palgyi Senge, nhưng những hoàn cảnh cho thấy Terton Sogyal Lerab Lingpa, hóa hiện của Tổ Nanam Dorje Dudjom, sẽ là vị thực sự phát lộ Terma.

Mùa thu năm 1895, Terton Sogyal du hành cùng với Đức Jamgon Kongtrul[18] (khi ấy đã 82 tuổi) đến “Động Làm Hài Lòng Heruka Kinh Hoàng” ở những ngọn đồi phía trên Tsadra Rinchen Drak. Khi Terton Sogyal đến gần hang động, đường nét của cánh cửa Terma trở nên rõ ràng trên mặt đá. Thấy vậy, Ngài phấn khởi và ném một viên đá vào đó. Lập tức, trái đất rung động với âm thanh đổ vỡ lớn như thể toàn bộ ngọn núi sắp đổ sụp. Một khe hở xuất hiện và hương thơm tuyệt vời ngập tràn không khí. Terton Sogyal ấn tay vào đá và kéo ra một bức tượng Kutsab trong thế sải bước và cầm chày và dao Phổ Ba và cùng với đó, chiếc hộp chứa Yang Nying Pudri. Bọc chúng cẩn thận trong lụa để không ai thấy, Ngài đặt chúng trong hòm Terma được giữ bởi vị phối ngẫu của Ngài. Hộc Terma trong đá cũng chứa đầy cam lồ, nhưng Ngài bảo rằng lấy ra không phải là việc của Ngài và Ngài sẽ không làm thế. Tuy nhiên, vị phối ngẫu khăng khăng khẩn nài và để tránh làm Bà ấy thất vọng, Ngài lấy ra một chút cam lồ, thứ giải thoát khi nếm và để kho tàng còn lại y nguyên như Ngài đã tìm ra. Ngài cúng dường một sự thay thế cho Terma và đóng cánh cửa và cẩn thận niêm phong. Sau đấy, Đức Jamgon Kongtrul gia nhập và họ cử hành cúng dường Torma lên những vị bảo vệ Torma, trì tụng những đoạn kệ hồi hướng và lời cầu nguyện cát tường.

Năm Hỏa Thân (1896) là lúc Terton Sogyal cần du hành đến Lhasa và trao thêm nhiều giáo lý Terma của Ngài cho Đức Dalai Lama như được tiên đoán bởi vị tiên tri Nechung. Vì thế, cùng với Pema Sherab và Shayul Tulku, Ngài bắt đầu chuyến viếng thăm Lhasa lần thứ ba.

Ngài đã cúng dường Đức Dalai Lama cuộn kinh cho kho tàng Phurba Yang Zab Nyingpo. Vị tiên tri Nechung tiên đoán rằng trước khi giải mã, Terton Sogyal cần cử hành cúng dường bao la trước bức tượng Jowo Rinpoche và dâng cúng dường Tsok trước bức tượng Orgyen Thongdrol (“Giải Thoát Nhờ Nhìn Ngắm”). Sau khi giải mã pho Phurba Yang Zab Nyingpo, Terton Sogyal cúng dường Đức Dalai Lama các quán đỉnhchỉ dẫn liên quan như được chỉ ra trong Themyik Don Sal.

Năm đó, Terton Sogyal lấy Terma Tamdrin Dorje Tropa Dechen Barwa từ chùa Rasa Trulnang và giải mã tại Sangwe Drupkyil, gần Cung điện Norbulingka. Như được chỉ ra trong Nejang Zabmo của pho Phurba Yang Zab Nyingpo, Ngài dành một tháng nhập thất ở Yamalung, tiến hành thực hành trường thọ bên ngoài Tsedrup Sangdu và sau đấy, một tháng nữa ở Chuwori, tiến hành thực hành bên trong. Tiếp đó, Ngài dâng quán đỉnh trường thọ lên Đức Dalai Lama. Ngài cũng phát lộ hai thực hành Tara, một ở Yarlung Sheldrak và một ở Chakpori, trước khi trở về Kham.

Ngài đến Kham vào cuối năm Hỏa Thân và trong năm Hỏa Dậu (1897), Ngài dâng lên [Jamgon] Kongtrul Rinpoche các quán đỉnhchỉ dẫn liên quan đến Phurba Yang Zab Nyingpo.

Không lâu sau, Ngài khám phá ra Chogyal Laphur của [Vua] Trisong Deutsen. Sau đó, nhận ra cần phải trở về Lhasa, Ngài một lần nữa lại khởi hành ngay khi Ngài phát lộ một bức tượng Kutsab khác của Guru Rinpoche. Ngài giải mã Ngontok và vài bản văn khác trong pho Yang Nying Pudri ở Thadul trong vùng Kongpo, với Losal Sangak Tendzin, thị giả của Đức Jamgon Kongtrul, là người ghi chép.

Quay lại Lhasa, Ngài cúng dường bức tượng Kutsab Guru Rinpoche, Chogyal Laphur và những chỉ dẫn về Yang Nying Pudri lên Đức Dalai Lama, vị trải qua một giấc mơ rất sống động vào sáng hôm sau, điều được ghi lại trong tiểu sử của Ngài. Đức Dalai Lama nằm mơ rằng Ngài thấy bản thân trước cung điện của Guru Rinpoche, nơi mà hai vị tôn quý gặp Ngài, cất tiếng hát những đoạn kệ tiên tri nhắc đến thực hành Yang Nying Pudri. Trong một đoạn kệ, họ hứa rằng:

‘Trong nghĩa địa của sự hiển bày phẫn nộ bao la,

Nhờ bước vào đàn tràng bí mật thù thắng của

Phổ Ba đáng sợ vĩ đại và nhờ giữ thệ nguyệngiới luật,

Các thành tựu sẽ nhanh chóng đạt được: điều này được đảm bảo!’.

Về sau, thực hành Phổ Ba Kim Cương này đã trở thành một trong những thực hành thường xuyên tại Namgyal, Tu viện của chính Đức Dalai Lama và Đức Dalai Lama cũng đã biên soạn một cuốn giáo khoa để thực hành như một Drupchen.

Terton Sogyal tiến hành các thực hành Terma khác nhau (Terdrup) ở Yerpa, Chimphu và Sheldrak. Vào ngày Mười bốn tháng Giêng năm Thổ Hợi (1899), Ngài bắt đầu nhập thất trì tụng Phổ Ba Kim Cương ở Potala. Trong đêm đầu tiên, Ngài nằm mơ thấy một người phụ nữ trông giống như mẹ của Ngài, người trao cho Ngài một sợi lụa được thắt nút. Hôm sau, trong thời khóa sáng sớm, Ngài thực sự thấy Ekazati và Bà ấy trao cho Ngài một thông điệp tiên tri rồi biến mất.

Ngài đã du hành đến Tsari cùng với Atrin và Adzin Rinpoche và lấy được một hộp từ hồ nước. Ngài lấy được nhiều cuộn kinh và một lọn tóc của Đức Bà Yeshe Tsogyal từ Nering Senge Dzongphuk. Sau đấy, Ngài dành một tháng nhập thất ở Thangyal, thực hành vì sự trường thọ của Đức Dalai Lama.

Lúc này, một lễ gia trì thuốc (Mendrup) Phổ Ba Kim Cương được cử hành trùng với Đại Lễ Cầu Nguyện hay Monlam Chenmo ở Lhasa và những bản khắc gỗ được làm cho pho giáo lý Yang Nying Pudri. Terton Sogyal đến Kongpo và phát lộ một Terma Wangchen từ động Kim Cương Hợi Mẫu ở Nyangpo Drakkar Lhachu và sau đó, trở về Lhasa. Ngài tiến hành nhập thất một tháng ở Yerpa.

Ngài giải mã Phurba Marnag Rakta với Trinley – vị Yogi về Phổ Ba Kim Cương là người ghi chép rồi đến Samye, nơi Ngài lưu lại một lúc tại khu trại của những môn đồphát lộ một bức tượng Kutsab Orgyen Heruka và một bức Quan Âm Tứ Thủ. Ngài hoàn thành nhập thất một tháng ở Chimphu rồi tiến hành nhập thất khác ở Yarlung Sheldrak. Ở Tsang Silma Thang, Ngài phát lộ vài viên thuốc trường thọ. Ngài đến Sakya, nơi Ngài trao đổi các quán đỉnhchỉ dẫn với vị trì giữ Pháp tòa Sakya vĩ đại. Ngài lấy một bức tượng Kutsab Văn Thù từ hang động gần Tu viện Sakya, thứ mà sau này Ngài cúng dường Mipham Rinpoche và Ngài đã viếng thăm các địa điểm linh thiêng ở Tsang và lấy được Laglen Rinchen Demik từ Yardok Yutso. Ngài diện kiến Đức Karmapa thứ mười lăm – Khakhyap Dorje (1871-1922) ở Tsurphu và trao cho vị này vài Terma như một duyên khởi cát tường. Ngài đến Ushu Jowo, Gangri Thokar và những nơi khác rồi trở về Lhasa, nơi Ngài giải mã Terma Wangchen ở Potala.

Trở về Kham, Ngài giải mãi hai trong số những thực hành lấy ra từ động Kim Cương Hợi Mẫu ở Joton Lhakhang, Chamdo. Sau đó, Ngài đến Dzahka, nơi mà vào năm Kim Tý (1900), Ngài giải mã thêm nhiều kho tàng từ động Kim Cương Hợi Mẫu trước khi du hành để thọ nhận những chỉ dẫn nhập thất từ Lungtok Rinpoche[19].

Ngài du hành đến Dzahka và thọ nhận trao truyền cho một trăm linh tám quyển trong Kangyur từ Choktrul Rinpoche, cùng với các quán đỉnh và trao truyền về Lama Gongdu của Sangye Lingpa. Ngài cũng giải mã một Terma Kim Cương Thủ.

Vào ngày Mười tháng Bảy, Guru Rinpoche xuất hiện trước Terton Sogyal trong một giấc mơ, được vây quanh bởi chư Không Hành Nữ năm gia đìnhban cho Ngài trọn vẹn các quán đỉnhchỉ dẫn về Tiêu Trừ Lỗi Lầm Của Duyên Khởi (Tendrel Nyesel) trước khi tan thành ánh sáng. Mỗi vị Không Hành Nữ sau đấy lần lượt ban tiên tri của riêng mình. Vào ngày Hai mươi lăm, trong lễ cúng dường Tsok Khandro Sangwa Kundu, Terton Sogyal trở nên rõ ràng về địa điểm của Tendrel Nyesel. Ngài không nói điều gì, nhưng viết một ghi chú, điều mà Ngài cho Dzahka Choktrul Rinpoche xem, vị vô cùng hài lòng.

Vì sự cát tường, họ cúng dường Tsok cùng nhau theo Terma của Tổ Rigdzin Longsal do chính Kim Cương Hợi Mẫu sắp xếp. Terton Sogyal dâng những lời nguyện ước rằng không có chướng ngại nào trong việc tìm ra Tendrel Nyesel và sự phát lộ này đem đến cơn sóng lợi lạc lớn lao. Khi Ngài thực sự được vị bảo vệ trao hộp Terma vào ngày Hai mươi bảy, Terton Sogyal nói rằng Ngài cảm thấy hạnh phúc hơn so với khi phát lộ bất kỳ Terma nào khác của Ngài.

Tối ngày Hai mươi tám, Guru Rinpoche xuất hiện trước Terton Sogyal, cưỡi hổ và ban tiên tri liên quan đến việc giải mã Tendrel Nyesel. Vào ngày Ba tháng Tám, Terton Sogyal phát lộ một hộp chứa cam lồ. Từ ngày Mười đến Mười hai, chỉ trong hai ngày, Ngài giải mã toàn bộ bản văn thực hành Tendrel Nyesel và sau đấy, dâng những lời nguyện ước bao la với sự nhất tâm. Ngài cảm thấy vô cùng hoan hỷ.

Năm Kim Sửu (1901), Terton Sogyal trở về Lhasa cùng vài học trò và tu sĩ và giải mã Padme Trengwa từ kho tàng gốc Wangchen tại cung điện đỏ. Ngài gặp [Hộ Pháp] Gonpo Mahakala trong một linh kiến và sau đấy, giải mã một nghi quỹ Mahakala và cúng dường Tsok. Ngài dâng các quán đỉnh và trao truyền Tendrel Nyesel lên Đức Dalai Lama, vị đã biên soạn lời cầu nguyện cúng dường những vị bảo vệ giáo lý này.

Năm Thủy Dần (1902), Ngài lấy nghi quỹ Mã Đầu Minh Vương Đen và nghi quỹ Mengak Nyingpo từ Samye.

Ngày Hai mươi lăm tháng Giêng năm Thủy Mão (1903), Ngài giải mã Thukdrup Zabdon Nyingpo, điều được lấy ra từ động Kim Cương Hợi Mẫu ở Drakkar Lhachu bốn năm trước.

Sau đấy cũng trong năm đó, Lerab Lingpa du hành đến một địa điểm kho tàng với sự đồng hành của Đức Dalai Lama và phát lộ một Terma. Ngài lấy ra ba Terma, nhưng chỉ giữ một trong số chúng và chôn giấu lại hai Terma kia với những lời nguyện ước. Sau này, khi Ngài viết lại Terma, chữ viết được mã hóa không thể được giải mã hoàn toàn, vì thế, Ngài thấy rằng vẫn chưa đến lúc để phát lộ.

Ngài phát lộ thực hành Terma về Guru Raksha Totreng Tsal ở Bhendhe Chakkar Dongring. Vào ngày Hai mươi mốt tháng Ba năm Mộc Thìn (1904), Ngài thấy Dorje Me Obar Tsal trong linh kiến giấc mơ và nhận một tiên tri. Sau đó, Ngài giải mã kho tàng Mã Đầu Minh Vương Đen.

Năm Hỏa Ngọ (1906), Terton Sogyal bước sang tuổi năm mươi mốt. Mặc dù các Terma của Ngài và những tuyên bố của Đức Jamyang Khyentse Wangpo và nhiều vị khác đã chỉ ra rằng Ngài chỉ sống năm mươi năm, thọ mạng của Ngài được kéo dài nhờ những hoàn cảnh tích cực và giờ đây đã vượt qua mọi tiên tri.

Trong năm đó, Ngài lấy ra một hộp kho tàng từ Marong như được chỉ ra trong Sengdongma Themyik và hướng dẫn tiên tri. Vào ngày Hai mươi bốn tháng Ba, Ngài trải qua lần lượt tám linh kiến tuyệt diệu. Ngài tìm ra Tsedrup Yishyin Norbu và hai mươi mốt viên thuốc trường thọ. Ngài cũng phát lộ Lời Khuyên Tâm Yếu Của Tsogyal và Guru Dechen Gyalpo Shyidrak một cách bí mật. Nhờ thực hành Terdrup, những viên thuốc trường thọ tăng thêm thành bốn trăm. Ngài phát lộ pho Kagye Sangwa Dupa [độ dài] trung bình vào ngày Hai mươi tháng Mười một và giải mã ở Tu viện Tsabtsa.

Năm Hỏa Mùi (1907), Ngài đến Tu viện Dzogchen và thỉnh cầu các quán đỉnh Rinchen Terdzo từ Dzogchen Rinpoche thứ năm – Thubten Chokyi Dorje và các trao truyền và chỉ dẫn liên quan từ Gemang Choktrul. Ngài thọ nhận chúng cùng với con trai, vị phối ngẫu và nhiều tu sĩ. Trong các quán đỉnh, Ngài trải qua nhiều linh kiến.

Vào ngày Mười lăm tháng Mười, Ngài gặp Ekazati trong mơ và viết lại một kho tàng. Ngài phát lộ cuộn kinh cho pho trung bình về Gongdu Zabdon Nyingpo. Vào ngày Hai mươi chín tháng Mười năm Thổ Dậu (1909), Không Hành Nữ Pal Dokham Dakmo xuất hiện trước Ngài và trao cho Ngài vài lời khuyên. Vào ngày Hai mươi lăm tháng Sáu năm Kim Tuất (1910), Ekazati xuất hiệngiao phó cho Ngài Những Lời Khuyên Bí Mật Từ Chư Không Hành Nữ với tựa đề Ba Móng. Từ ngày Bảy đến ngày Chín tháng Bảy, Terton Sogyal lấy được nhiều bức tượng Kutsab do chính tay Đức Bà Tsogyal làm từ Lhachu Drak. Sau đó, Ngài phát lộ Themyik của Yongdzok Dupa và đến gặp Dodrupchen Rinpoche thứ ba – Jigme Tenpe Nyima[20] trước khi đến Magyal Pomra và phát lộ nhiều Terma.

Năm Thủy Tý (1912), Ngài lấy ra thêm nhiều Terma từ Magyal Pomra, giải mã chúng rồi dành nhiều tháng nhập thất tiến hành Terdrup, trong khi chư Tăng cử hành cúng dường Tsok và v.v. Ngài trở về gặp Dodrupchen Rinpoche và vào ngày Mười lăm tháng Mười, Ngài giải mã nghi quỹ Deshek Chegye, Zungchok và quán đỉnh sâu xa về Guru Menla và thành tựu thù thắng về Guru Menla, với Dodrupchen Rinpoche là người ghi chép. Khi Ngài đang ở bên Đức Dodrupchen, vào ngày Hai mươi tám tháng Mười, một Không Hành Nữ xuất hiện trước Ngài trong giấc mơ và tiên đoán thêm nhiều phát lộ Terma. Vào ngày Tám tháng Mười một, trong thời khóa chiều muộn, nhận thức bình phàm của Ngài chấm dứt và Guru Rinpoche [trong hình tướng] Nangsi Zilnon xuất hiện trước Ngài và ban một ‘Tiên Tri Ba Phần Tuyệt Diệu’.

Vào ngày đầu tiên của tháng Hai năm Thủy Sửu (1913), Terton Sogyal, con trai của Ngài – Rigdzin Namgyal, Atrin và một người hướng dẫn tên Aba đã đến Latsedrung để phát lộ các Terma. Năm đó, Terton Sogyal công nhận con trai của Amdo Gurung là một Tulku (vị tái sinh) của Mipham Rinpoche. Trong tháng Năm, Ngài đến Zhilingkhar cùng vài học trò[21].

Ngài đã phát lộ Khabjang của Jampal Shinje Dongdruk và thực hành sâu xa về chư vị an bìnhphẫn nộ của năm gia đình. Vị bảo vệ Terma – Tipatsa xuất hiện trước Ngài vào ngày đầu tiên của tháng Tám ở Núi Megyal. Vào ngày Hai mươi tháng Hai năm Mộc Dần (1914), một vị Không Hành Nữ tiên tri về việc phát lộ Raksha Thotreng Tsal Ubum.

Chính lúc này, Ngài chuyển đến Golok để được thân cận Dodrupchen Rinpoche trong phần còn lại của cuộc đời. Ngài bắt đầu xây dựng một Tu viện ở Khemar trong thung lũng Thượng Do, nhưng cuối cùng đã để những vị khác hoàn thành nó.

Năm Mộc Mão (1915), Ngài đến Shukjung Gonpa và ban các quán đỉnh Shinje Tsedak và Rigdzin Dungdrup từ truyền thống Kho Tàng Phương Bắc cũng như thực hành bên ngoài về Thukchen và Jigpa Gyekyob từ những phát lộ của chính Ngài. Trong tháng Hai, Ngài dâng các quán đỉnh và trao truyền cho mọi giáo lý Terma của Ngài lên Dodrupchen Rinpoche. Trong tháng Ba, Ngài ban cho học trò Tsultrim Zangpo[22] mọi quán đỉnh cho các Terma của Ngài ở Tu viện Dodrup. Trong tháng Tư, Ngài ban nhiều quán đỉnh ở Raktrom Jampa Ling và sau đấy tại Tu viện Shyichen. Ngài giải mã thêm vài Terma ở Tu viện Dodrup và Tổ Phadampa Sangye xuất hiện trước Ngài trong một linh kiến và trao lời khuyên. Trong tháng Mười, lúc đang ở nơi cư ngụ gần nơi cư ngụ của Dodrupchen Rinpoche, Ngài có một giấc mơ, trong đó, Ngài gặp một Lama mà Ngài không nhận ra là ai, vị đang ngồi trên tòa cao trong một ngôi nhà lộng lẫy trên đỉnh của một ngọn núi lớn. Ngài cảm thấy vô cùng sùng mộ vị Lama, người sau đấy biến thành Guru Rinpoche Nangsi Zilnon.

Năm Hỏa Thìn (1916), sáu mươi mốt tuổi, Ngài ban các giáo lý về Lời Vàng Của Thầy Tôi (Kunzang Lama’i Shyalung) dựa trên những giáo lý của Đức Nyoshul Lungtok và các giáo lý mở rộng khác cho nhiều Pháp tử của Ngài. Cũng năm đó, Ngài giải mã những cuộn kinh cho pho Đạo Sư Phổ Ba Tâm Trí Tuệ, thứ mà Ngài đã có được trong hai mươi mốt năm. Mùa hè, Ngài đến gặp Dodrup Rinpoche và thỉnh cầu vị này biên soạn luận giải nổi tiếng về Mật điển Guhyagarbha – Chìa Khóa Cho Kho Tàng Quý Báu và đích thân Ngài đã là người ghi chép. Trong Pháp hội Drupchen Ratling Phurba [Phổ Ba Kim Cương do Ratna Lingpa phát lộ] tại Tu viện Dome, Ngài có một giấc mơ, điều dẫn đến việc biên soạn một cúng dường Tsok đến Đức Karmapa.

Năm Thổ Ngọ (1918), Ngài đến Setong để giám sát việc in ấn tuyển tập Terma của Ngài (Tercho). Khi Dodrup Rinpoche lâm bệnh, Terton Sogyal đã đến để cử hành các thực hành vì sự trường thọ của Rinpoche.

Năm Thổ Mùi (1919), Ngài hoàn tất việc giải mã pho Yongdzok Dupa. Vào ngày Mười một tháng Tám, Ngài giải mã Terma Hai Mươi Bảy Bạch Không Hành Nữ Trường Thọ. Vào ngày Mười lăm, Ngài giải mã nhiều thực hành trường thọ liên quan đến Mandarava, Bạch Độ Mẫu và Kim Cương Hợi Mẫu. Mùa hè, Amdo Geshe[23] đến gặp Terton Sogyal để thọ nhận quán đỉnh Phổ Ba Kim Cương. Cũng lúc này, Terton Sogyal trao cho Tsultrim Zangpo những giáo lý về luận giải Guhyagarbha của Dodrupchen Rinpoche.

Ngày Tám tháng Ba năm Kim Thân (1920), Hồng Danh Nghìn Lẻ Hai Vị Phật xuất hiện trước Ngài như một Terma tâm trong lúc Ngài đang ở tại địa điểm kho tàng Marong.

Trong năm Kim Dậu (1921) sau đó, Ngài lấy được một hộp từ Hồ Karma. Ngài cũng lấy được ‘đá sinh mệnh’ linh thiêng từ Hồ Đen gần Tsangme Senge Gonpa. Trong lúc ở tại Tsangme Senge, Ngài được chư Không Hành Nữ yêu cầu giải mã hai Terma và đã làm thế bên ánh sáng ngọn đèn. Sau đấy, Ngài nhận được một tiên tri trong giấc mơ liên quan đến ba phiên bản khác nhau của Tendrel Nyesel: dài, trung bình và ngắn.

Năm Thủy Tuất (1922), Ngài đến Tu viện Dzogchen và giải mã bản văn quán đỉnh cho thực hành Phổ Ba Kim Cương được biết đến là Phurba Gyachen Rolpa ở nơi cư ngụ của Gemang Rinpoche trong Ẩn thất Shri Singha. Ngài trước tiên ban quán đỉnh Gyachen Rolpa cho Gemang Rinpoche và sau đó ban nó cho Dzogchen Rinpoche và nhiều tu sĩ ở chùa chính của Tu viện Dzogchen. Như được tiên đoán vào năm trước, Ngài cũng giải mã những bản trung bình và ngắn gọn của Tendrel Nyesel cũng như một thực hành Tsok. Ngài cũng giải mã vài kho tàng tâm liên quan đến chiến binh Gesar vĩ đại. Không lâu sau, Ngài ban quán đỉnh và trao truyền Yongdzok Dupa, Phurba Gyachen Rolpa và các phiên bản ngắn và trung bình của Tendrel Nyesel cho Tsultrim Zangpo, Atrin, vị phối ngẫu và con trai của Ngài.

Chính vào khoảng thời gian này, Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro[24] đã gặp Terton Sogyal và thọ nhận những giáo lý từ Ngài. Tiểu sử của Đức Jamyang Khyentse do Dilgo Khyentse Rinpoche[25] soạn nói rằng:

Trên đường, Ngài đến viếng thăm Terton Lerab Lingpa vĩ đại. Thậm chí trước khi Ngài gặp vị phát lộ kho tàng vĩ đại này, chỉ nghe danh hiệu cũng khiến Ngài cảm thấy lòng sùng mộ sâu sắc và không tạo tác. Trong những cuộc gặp gỡ sau đó, Ngài thọ nhận quán đỉnh, chỉ dẫnkhẩu truyền cho pho Phổ Ba Kim Cương Yang Nying Pudri, điều vốn là một phát lộ Terma sâu xa của Jamgon [Kongtrul] Lodro Thaye vĩ đại, nhưng vì hoàn cảnh, đã được trao truyền cho chính Terton vĩ đại và trong những giáo lý Terma của Đức Lerab Lingpa, Ngài thọ nhận các thực hành Phổ Ba Kim Cương Dorje Kopa và Gyacher Rolpa, những phiên bản dài và trung bình của Tendrel Nyesel và pho Terma tâm về các thực hành Gesar. Ngài cũng thọ nhận sự cho phép trao truyền toàn bộ tuyển tập những phát lộ Terma của Terton Sogyal. Ngài thọ nhận nhiều trao truyền sâu xa khác từ Terton, chẳng hạn các quán đỉnh và trao truyền kinh văn về Drolthik Gongpa Rangdrol, quán đỉnh Tinh Túy Sâu Xa Của Vimala Của Đức Chetsun Vĩ Đại và luận giải chú thích của nó, những từ ngữ vô song của chính Đấng Toàn Tri Khyentse Wangpo. Ngài nói rằng chính bởi thậm chí chỉ nghe danh hiệu của Terton Lerab Lingpa vĩ đại cũng khiến Ngài cảm thấy lòng sùng mộ mãnh liệt và tự nhiên mà Ngài yêu cầu sự giải mã cho phiên bản ngắn gọn của Tendrel Nyesel từ những cuộn kinh vàng[26].

Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro thường nói rằng Terton Sogyal thực sự lạ kỳ về cả sự uyên bác[27]thành tựu của Ngài.

Năm Mộc Tý (1924), Ngài giải mã vài Terma Mã Đầu Minh Vương và Dorje Drollo. Sau đó, Ngài cúng dường phần còn lại trong các Terma của Ngài lên Dodrup Rinpoche. Cuối cuộc gặp, hai đạo sư trao đổi khăn trắng, điều mà họ chưa từng làm trước kia và mỗi vị nói rằng, “Tôi sẽ gặp lại Ngài ở cõi Tịnh độ”. Cũng năm đó, Terton Sogyal trao thêm vài quán đỉnh cho Amdo Geshe.

Năm Mộc Sửu (1925), Ngài chôn giấu lại tất cả những Terma này, điều vẫn chưa trọn vẹnphát nguyện gặp lại chúng trong tương lai. Cuối cùng, Terton vĩ đại hiển bày những dấu hiệu nhập diệt vào ngày Mười tháng Giêng năm Hỏa Dần (1926).

Ngài là một trong những Terton sáng tác nhiều nhất trong lịch sử, các phát lộ Terma được tuyển tập của Ngài tạo thành gần hai mươi tập. Rất nhiều trong số những tác phẩm được biên soạn ban đầu của Ngài, nổi tiếng nhất là luận giải về Chetsun Nyingtik, cũng vẫn còn tồn tại[28].

CÁC ĐỆ TỬ

Vô số những vị trì giữ truyền thừa của Ngài, rất nhiều trong số đó cũng là những đạo sư của chính Ngài, bao gồm Đức Dalai Lama thứ mười ba – Thubten Gyatso, Jamgon Kongtrul Rinpoche, Dzogchen Rinpoche thứ năm, Dzogchen Khenpo Pema Vajra, Mipham Rinpoche, Đức Nyoshul Lungtok, Dzahka Choktrul Rinpoche, Terton Trime, Kathok Situ Chokyi Gyatso, Minyak Khenpo Kunzang Sonam, Dodrupchen [Rinpoche] Jigme Tenpe Nyima, Demo Rinpoche, Dorje Drak Rigdzin Nyamnyi Dorje (1886-1932/5), Minling Trichen Rinpoche, Sakya Trichen, Đức Karmapa thứ mười lăm – Khakhyab Dorje và Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro.

Vị phối ngẫu chính yếu của Ngài, đơn giản được biết đến là Pumo (nghĩa là ‘cô gái’), từ gia đình Khangsar cao quý ở Konjo, sống rất thọ, dành những năm sau này trong các hang động và ẩn thất trên những ngọn núi ở Nyarong. Bà nổi tiếng về sự thấu suốt và năng lực đẩy lùi sương giá hay cầu mưa. Nyoshul Khen Rinpoche, vị đã gặp Bà khi còn trẻ, nhớ rằng bất cứ khi nào ai đó bị ốm, họ đến gặp và Bà thường đề nghị một lời cầu nguyện hay thực hành đặc biệt cần tiến hành. Ngoài ra, Bà cũng thường trao cho họ dây bảo hộ. Người ta nhận ra rằng nếu Bà cho một trong số những thứ này, điều đó nghĩa là người ấy sẽ sống, nhưng nếu Bà trao cho họ cam lồ, điều đó nghĩa là căn bệnh của họ gây chết người. Bà chẳng bao giờ thừa nhận rằng Bà có sức mạnh biết xem một người sẽ sống hay chết, nhưng khi người ta xem xét những thống kê và kiểm tra, họ thấy rằng điều đó thực sự như vậy. Đó là dấu hiệu cho thấy Bà đã đạt được trạng thái chứng ngộ toàn tri hay thấu suốt và Bà được xem là giống như Dorje Phagmo (Kim Cương Hợi Mẫu). Bà cũng là một hành giả vĩ đại về Phổ Ba Kim Cương và trì tụng Mật chú này ba trăm triệu biến; nhờ thực hành Phổ Ba Kim Cương, Bà đã đạt được sự chứng ngộ trọn vẹn.

CÁC HÓA THÂN

Ngài có nhiều hóa thân như được chỉ ra trong các bản văn phát lộ Terma của Ngài và trong những tiên đoán với các đệ tử của Ngài, bao gồm Sogyal Rinpoche – vị được Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro công nhận và cố đạo sư Khenpo Jigme Phuntsok (1933-2004)[29] – vị đã thọ nhận mọi trao truyền của Terton Sogyal từ Lama Gendun Dargye, một đệ tử trực tiếp của vị Terton. Dòng truyền thừa cũng tiếp tục với những người con trai của Ngài[30] và truyền lại cho cháu trai của Ngài – Tromge Tulku Dechen Dorje[31], vị sống tại khu trại Tromge ở miền Đông Tây Tạng.

 

Nguồn Anh ngữ: https://www.rigpawiki.org/index.php?title=Tert%C3%B6n_Sogyal_Biography.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Theo Rigpawiki, Nanam Dorje Dudjom (thế kỷ 8-thế kỷ 9) – một trong những thượng thư của Vua Trisong Detsen, được cử đến Nepal để cung thỉnh Đức Liên Hoa Sinh đến Tây Tạng. Ngài trở thành một trong hai mươi lăm đệ tử chính yếu của Guru Rinpoche. Khi thọ nhận quán đỉnh từ Guru Rinpoche, bông hoa của Ngài rơi vào Mandala Phổ Ba Kim Cương. Nhờ thực hành này, Ngài trở thành một Mantrika thành tựu, vị có thể bay với tốc độ của gió và đi xuyên qua đá cứng. Danh hiệu Dorje Dudjom nghĩa là ‘Đấng Điều Phục Ma Quỷ Không Thể Phá Hủy’.

[2] Trophu Lotsawa Jampa Pal sinh vào thế kỷ 12.

[3] Cả Rigdzin Godem và Terton Sogyal đều sống thọ hơn bảy mươi tuổi. Việc một Terton sống thọ đến vậy là chuyện lạ.

[4] Theo Rigpawiki, Nyala Pema Dundul (1816-1872) – vị đạo sư Dzogchen và Terton nổi tiếng từ Nyarong, người là một đạo sư của Terton Sogyal và đã đắc thân cầu vồng vào năm 1872.

[5] Về Patrul Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a26125/tieu-su-van-tat-dai-su-dza-patrul-rinpoche-1808-1887-.

[6] Theo Rigpawiki, Khenpo Pema Vajra hay Khenpo Pema Dorje, Orgyen Chemchok hoặc Tulku Kasang Rinpoche thứ nhất (trước 1807-1884) là một Khenpo vĩ đại từ Tu viện Dzogchen. Ngài là đệ tử của Dzogchen Rinpoche thứ tư – Mingyur Namkhe Dorje, Jigme Gyalwe Nyugu, Gyalse Shenpen Thaye, Sengtruk Pema Tashi và nhiều đạo sư uyên bácthành tựu khác và là bậc thầy của Do Khyentse Yeshe Dorje, Dodrupchen Tenpe Nyima, Jamgon Mipham Rinpoche, Adzom Drukpa và Lerab Lingpa.

[7] Theo RigpawikiTu viện Dzogchen – Rudam Orgyen Samten Choling, một trong sáu Tổ đình Nyingma của Tây Tạng, được thành lập bởi Tổ Dzogchen Pema Rigdzin (1625-1697) vào năm 1675 (theo Đại Từ Điển Tây Tạng) hoặc 1684 (theo Tổ Jamyang Khyentse Wangpo). Nó trở nên đặc biệt nổi tiếng về [Phật học viện] Shri Singha Shedra do Gyalse Shenphen Thaye thành lập vào thời Dzogchen Rinpoche thứ tư – Mingyur Namkhe Dorje, không lâu sau khi Tu viện gần như bị phá hủy bởi một trận động đất vào năm 1842. Trong những đạo sư vĩ đại đã từng sống và giảng dạy tại Dzogchen có Khenpo Pema Vajra, Patrul Rinpoche, Mipham Rinpoche và Khenpo Shenga.

Trong thời của Dzogchen Rinpoche thứ năm (1872-1935), Tu viện Dzogchen ở thời kỳ đỉnh cao của các hoạt động, với năm trăm tu sĩ cư ngụ, mười ba trung tâm nhập thất và ước tính hai trăm tám mươi [Tu viện] nhánh – một tập hội gồm hàng vạn vị Lama, Tulku, Khenpo, Tăng và Ni. Quanh năm, một chuỗi những nghi lễ phức tạp mở rộng được hoàn thành. Dzogchen cũng là một trong những trung tâm nổi tiếng nhất về vũ điệu nghi lễ linh thiêng, ngày nay thường được biết đến là vũ điệu Lama.

Ngôi chùa chính đã bị phá hủy bởi hỏa hoạn vào tháng Hai năm Hỏa Tý (1936). Nó được xây dựng lại và sau đó, toàn bộ Tu viện bị phá hủy bởi người Trung Quốc vào cuối thập niên 1950.

[8] Chữ ‘sa’ trong tiếng Tạng cũng có nghĩa là đất. Chữ viết Lantsa thường được dùng để viết Phạn ngữ, đặc biệt trên bìa của những cuốn sách và câu khắc ở chùa.

[9] Theo Rigpawiki, Ekajati – một nữ Hộ Pháp quan trọng của những giáo lý Dzogchen. Bà được miêu tả là có một búi tóc (nghĩa đen của tên Bà), một mắt và một vú.

[10] Theo RigpawikiTu viện Kathok – Kathok Dorje Den – cổ nhất trong sáu Tổ đình Nyingma. Tu viện được thành lập bởi Tổ Kathok Dampa Deshek, em trai của Ngài Phagmodrupa Dorje Gyalpo, vào năm 1159, phía trên Horpo, ở miền Đông Tây Tạng. Địa điểm này được xem là một trong hai mươi lăm thánh địa của miền Đông Tây Tạng và đại diện cho địa điểm linh thiêng chính yếu về hoạt động giác ngộ. Sau khi Tu viện ban đầu trở nên ọp ẹp, một Tu viện mới được xây dựng tại đó vào năm 1656 bởi Terton Rigdzin Duddul Dorje (1615-1672) và Rigdzin Longsal Nyingpo (1625-1692). Có khoảng 800 tu sĩ tại Tu viện trước khi Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng.

Tu viện nổi tiếng về học thuật và đã đào tạo ra một vài trong số những học giả vĩ đại nhất trong lịch sử Tây Tạng, chẳng hạn Kathok Rigdzin Tsewang Norbu (1698-1755) và Getse Pandita Gyurme Tsewang Chokdrup (sinh năm 1761). Gần đây hơn, Kathok Situ Chokyi Gyatso và Khenpo Ngawang Palzang [tức Khenpo Ngakchung] nằm trong số những đạo sư vĩ đại nhất liên quan đến Tu viện này.

[11] Về Đức Jamyang Khyentse Wangpo, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a30571/cuoc-doi-duc-jamyang-khyentse-wangpo.

[12] Kunzang Namgyal, cũng được biết đến là Dzahka Choktrul, là một trong những đạo sư chính yếu của Terton Sogyal. Ngài là một đệ tử của Jamgon Kongtrul, Jamyang Khyentse Wangpo, Nyala Pema Dundul và nhiều đạo sư vĩ đại khác trong thế kỷ mười chín.

[13] Về Longchen Nyingtik, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a31844/gioi-thieu-ve-tam-yeu-cua-coi-gioi-bao-la.

[14] Theo Rigpawiki, Nyoshul Lungtok Tenpe Nyima (1829-1901) đã thọ nhận những giáo lý Dzogchen từ Patrul Rinpoche và là đệ tử vĩ đại nhất của Patrul Rinpoche. Ngài được xem là một hóa hiện của Đức Tịch Hộ Shantarakshita.

[15] Về Mipham Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a32261/tieu-su-duc-mipham-jamyang-namgyal-gyatso-1846-1912-.

[16] Theo Rigpawiki, Terton Rangrik Dorje, tức Nyala Rangrik Dorje hay Kusum Lingpa (1847-1903) – một đạo sư quan trọng từ Nyarong, vị liên hệ với Tu viện Lumorap. Ngài là đệ tử của Nyala Pema Dundul (1817-1872) và là đạo sư của Nyala Changchub Dorje. Đạo sư của Dudjom Rinpoche – Khenchen Jampal Dewe Nyima – là em trai và cũng là đệ tử của Ngài. Các phát lộ Terma được tuyển tập của Ngài gần đây được xuất bản thành 42 quyển.

[17] Theo Rigpawiki, Thubten Gyatso – Đức Dalai Lama thứ mười ba (1876-1933) là vị tiền thân của Đức Dalai Lama hiện tại – Tenzin Gyatso và là một trong những vị quan trọng nhất và sống thọ nhất trong truyền thừa Dalai Lama. Ngài trị vì trong giai đoạn biến động chính trị, điều khiến Ngài phải sống lưu vong từ năm 1904 đến 1909 và 1910 đến 1913. Những đạo sư của Ngài bao gồm Terton Sogyal, vị đã du hành đến Lhasa vào nhiều dịp khác nhau để trao cho Ngài các giáo lýquán đỉnh.

[18] Về Đức Jamgon Kongtrul, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a30929/tieu-su-duc-jamgon-kongtrul-yonten-gyatso.

[19] Tiểu sử của Khenpo Ngakchung nhắc đến rằng Đức Nyoshul Lungtok đã ban những giáo lý chi tiết về các thực hành sơ khởi (Ngondro) cho Terton Sogyal vào khoảng thời gian này. Chính Khenpo Ngakchung cũng có mặt và đã ghi chú lại, điều sau này trở thành [tác phẩm] Zindri [Dẫn Nhập Lời Vàng Của Thầy Tôi] nổi tiếng của Ngài.

[20] Theo Rigpawiki, Dodrupchen Jigme Tenpe Nyima, vị Dodrupchen Rinpoche thứ ba (1865-1926) – một trong những đạo sư Tây Tạng xuất chúng nhất thời đó và là đạo sư của nhiều Lama vĩ đại, bao gồm Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Ngài được Đức Dalai Lama thứ mười bốn đánh giá rất cao, vị gọi Ngài là “một học giả vĩ đại và một Yogi phi phàm”. Các trước tác của Dodrupchen Rinpoche thứ ba là một trong những nguồn chính yếu mà Đức Dalai Lama sử dụng cho các nghiên cứu Dzogchen cá nhân và Ngài thường xuyên trích dẫn Dodrupchen Rinpoche trong lúc giảng dạy.

[21] Vài người nói rằng chính lúc này, bức hình duy nhất được biết đến của Terton Sogyal đã được chụp.

[22] Theo Rigpawiki, Tulku Tsultrim Zangpo, tức Tulku Tsullo (1884-trước 1957) – một trong những học giả Tây Tạng vĩ đại nhất trong thời kỳ gần đây, là một đệ tử quan trọng của Terton Sogyal Lerab Lingpa, cũng là tác giả của tiểu sử bí mật và là vị trì giữ truyền thừa những giáo lý Terma của Terton Sogyal.

[23] Theo Rigpawiki, Amdo Geshe Jampal Rolwe Lodro (1888-1936) là một đạo sư Gelug, người cũng là một học trò của Đức Jamyang Khyentse Wangpo và Terton Sogyal và là thầy của Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Ngài là một nhân vật quan trọng trong phong trào Rime.

[24] Về Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a32327/cuoc-doi-duc-jamyang-khyentse-chokyi-lodro.

[25] Về Dilgo Khyentse Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a32138/tieu-su-dilgo-khyentse-rinpoche-1910-1991-.

[26] Dilgo Khyentse Rinpoche cũng nhắc đến tình tiết này trong hướng dẫn nghi lễ quán đỉnh Tendrel Nyesel mà Ngài viết cho Đức Dalai Lama. Đức Jamyang Khyentse ban đầu thọ nhận các trao truyền chỉ cho phiên bản dài và trung bình, bởi lúc ấy, phiên bản ngắn hơn chưa được giải mã từ những cuộn kinh vàng Terma. Nhưng Đức Jamyang Khyentse đã thỉnh cầu Terton Sogyal giải mã để Ngài có thể thọ nhận. Terton Sogyal đã làm vậy và sau đấy, yêu cầu Đức Jamyang Khyentse hoằng dương rộng khắp bởi Ngài đã thọ nhận cả ba phiên bản. Đức Jamyang Khyentse trao lại cho Dilgo Khyentse Rinpoche, vị đã trao lại cho Đức Dalai Lama [thứ mười bốn].

[27] Khenpo Ngakchung nhắc đến trong tự truyện của Ngài cách mà Mipham Rinpoche bảo với Ngài rằng sau Đức Nyoshul Lungtok, những đạo sư uyên bác nhất của truyền thống Nyingma là Terton Sogyal và Dodrupchen Jigme Tenpe Nyima.

[28] Bản tiểu sử này về cơ bản dựa trên tiểu sử bí mật của Lerab Lingpa được biên soạn vào năm 1942 bởi Tulku Tsultrim Zangpo. Tiểu sử này là một nỗ lực ban đầu để kết tập một vài trong số những tài liệu có sẵn về Terton Sogyal. Chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ giúp mở cánh cửa dẫn đến những nghiên cứu sâu hơn trong tương lai. Vốn không thiếu những tài liệu: tiểu sử do Tsultrim Zangpo soạn đã dài hơn 700 trang và cũng có nhiều đoạn dài trong tiểu sử chính thức của Đức Dalai Lama thứ mười ba, điều nhắc đến Terton Sogyal, cũng như vô số nguồn khác, bao gồm các lời ghi cuối cho những Terma của Ngài và tiểu sử của những vị đương thời với Ngài. Cũng có những tường thuật khẩu truyền của chư đạo sư, chẳng hạn Dilgo Khyentse Rinpoche, Khenpo Jigme Phuntsok Rinpoche, Nyoshul Khen Rinpoche và Garje Khamtrul Rinpoche, rất nhiều trong số chúng đã may mắn được giữ gìn.

[29] Về Khenpo Jigme Phuntsok, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a29403/trai-tim-larung-gar-tieu-su-kyabje-jigmey-phuntsok-rinpoche.

[30] Trong những con trai của Terton Sogyal, hai vị trì giữ chính yếu cho truyền thừa Terma của Ngài là Rigdzin Namgyal và Chopel Gyatso.

[31] Theo Rigpawiki, Tromge Tulku Dechen Dorje (những năm 1930-2015) là cháu trai của Terton Sogyal và một trong những vị trì giữ truyền thừa của Terton, vị sống tại khu trại Tromge ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Ngài cũng là một học trò của cố đạo sư Arik Rinpoche.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 182)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 184)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 309)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 651)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 660)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 775)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 751)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1053)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1276)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1089)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2372)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1764)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3469)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1585)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2529)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2309)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 1951)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2911)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 1978)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2343)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1763)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1654)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2388)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1467)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2780)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1821)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3739)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2072)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1927)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2462)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4418)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1870)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2780)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1604)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2499)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2594)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 1997)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3573)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3021)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 1957)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 1985)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2313)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2020)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1857)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2421)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2078)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2122)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2530)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3601)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2171)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3281)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 2922)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5199)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2575)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 5263)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3811)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2719)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2460)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2669)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
(Xem: 3658)
Với những vị nhấn mạnh duy nhất vào việc trưởng dưỡng Bồ đề tâm trong cuộc đời, lời khuyên thích hợp cho họ khi tiến gần đến cái chết là nương tựa năm sức mạnh để định hướng lối đi của họ đến đời sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant