Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngọn Đèn Sáng Tỏ – Một Tiên Tri Về Tương Lai

14 Tháng Năm 202007:14(Xem: 5291)
Ngọn Đèn Sáng Tỏ – Một Tiên Tri Về Tương Lai

Ngọn Đèn Sáng Tỏ – Một Tiên Tri Về Tương LaiTừ Những
Lời Dạy Của Đức Phật

Jamyang Khyentse Chokyi Lodro[1] kết tập[2]
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

Cầu An

 

Kính lễ Tam Bảo[3]!

Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.

Phạm vi của điều được gọi là Giáo Pháp thì giống như một con đường. Tại sao vậy? Bởi chính trên con đường này mà mọi chúng sinh đang sống du hành. Đấy là lý do Giáo Pháp được cho là giống như một con đường.

Một thời, khi Đức Thế Tôn an tọa dưới cội Bồ đề, Ngài quán sát tất cả chúng sinh đang sống trong cõi Nam Thiệm Bộ Châu. Ngài thấy rằng cuối thời kỳ, trong giai đoạn năm trăm năm, một thời kỳ đen tối sẽ xuất hiện. Về những ý nghĩ và hành động của mọi chúng sinh, những người gặp được bản văn này nhờ sự thanh tịnh mười phần của họ, sẽ vô cùng phước đức. Trong khi đó, những người không gặp được bản văn này thì thiếu công đức và sẽ trải qua đau đớn dữ dội bởi các phiền não. Con người trên trái đất này sẽ cảm thấy như thể họ bị chặt ra bằng các vũ khí.

Sau đấy, Tôn giả A-nan-đà bạch Đức Thế Tôn rằng, “Bạch Thế Tôn, bởi Ngài nghĩ đến con người với lòng bi, xin hãy cứu họ thoát khỏi khổ đau này”.

Đức Thế Tôn nói với Tôn giả A-nan-đà, “Ta sẽ giải thích cho con. Ta đang trụ trong cõi giới của hư không. Ta đã hướng sự chú ý đến việc dõi theo chúng sinh đang sống trong cõi Nam Thiệm Bộ Châu. Này tất cả, hãy lắng nghe lời Ta. Bản văn Giáo Pháp này là một giáo lý sẽ đem đến lợi lạc khi mà thời kỳ xấu xa xuất hiện. Viết bản văn này và trì tụng nó, thực hành quán tưởng và trì tụng Đấng Đại Bi sẽ nhanh chóng tịnh hóa mọi hành động gây hại và che chướng. Tôn kính bản văn này bằng những món cúng dường của hương và hoa sẽ đem đến hạnh phúc cho mọi hữu tình chúng sinh. Viết lại và trì tụng bản văn này sẽ dẫn đến sự tái sinh tốt đẹp trong mọi đời tương lai”.

Dưới gốc cây là một hồ lớn. Bên bờ hồ có hóa hiện của Đấng Đại Bi, vị đã hướng lòng khoan dung về mọi chúng sinh đang sống và than khóc dữ dội. Đức Thế Tôn nói rằng:

“Này Đấng Đại Bi, hãy lắng nghe thật kỹ. Chẳng cần phải than khóc. Hãy lắng nghe thật kỹ điều Ta phải nói. Trong tháng Dần của Năm Mới, Ta đã quyết định đi đến cõi người[4]. Khi ấy, Ta đã giải thoát tất cả chúng sinh của thời kỳ đen tối khỏi đại dương khổ đau, tức luân hồi. Họ đã từ bỏ mọi hành động gây hại. Ta thậm chí dẫn dắt những chúng sinh đã đọa vào địa ngục. Lúc ấy, Ta đã truyền bá bản văn Giáo Pháp này. Viết hay trì tụng bản văn này sẽ chấm dứt mọi bệnh tật. Bất cứ người nào viết lại bản văn này sẽ làm lợi lạc toàn bộ thị trấn. Bất cứ thị trấn nào, nơi bản văn này được viết lại, sẽ làm lợi lạc toàn bộ quốc gia. Công đức của con người sẽ tăng trưởng và các hoàn cảnh tiêu cực cùng chướng ngại sẽ bị đẩy lùi. Bản văn này sẽ đem đến sự giải phóng khỏi các khổ đau của địa ngục. Bản văn này sẽ đem đến lợi lạc trong cả đời hiện tại và tương lai. Đây là con đường trọng yếu cho tất cả chúng sinh trong sáu cõi. Nó giống như con thuyền vượt qua đại dương hay dòng sông. Có niềm tin và lòng sùng mộ thanh tịnh với bản văn này là điều quan trọng. Cho đến khi Đức Di Lặc đến cõi người, bản văn này sẽ đem lại lợi lạc mở rộng. Viết lại Giáo Pháp này và chia sẻ với chúng sinh khác sẽ đem đến công đức vô lượng trong chính đời này và thân này. Nó sẽ khiến đại dương ngập máu của luân hồi khô cạn.

Bởi mười sự bất tịnh tinh thần, chúng sinh trước tiên sẽ chìm ngập trong các phiền não. Tất cả chúng sinh thật đáng thương làm sao! Như vậy, thứ hai, cõi người sẽ trở thành một thung lũng ngập máu. Thứ ba, mặc dù mùa màng được gieo trồng và đất đai được cày cấy, sẽ chẳng có tự do để tận hưởng kết quả[5]. Thứ tư, con người sẽ trải qua khổ đau dữ dội. Thứ năm, người ta sẽ mất đi tầm nhìn khi đang du hành trên các con đường[6]. Thứ sáu, các thành phố sẽ tràn ngập những loài thú hoang ăn thịt. Thứ bảy, các tòa nhà trong những quốc gia sẽ bị bỏ lại trống không[7]. Thứ tám, những thú hoang ăn thịt sẽ được thấy là đang lang thang không chủ đích[8]. Thứ chín, mặc dù một vài người còn sót lại, họ sẽ chẳng dám ở đó. Thứ mười, ngạ quỷtinh linh gây hại sẽ xuất hiện, lang thang khắp các thành phố. Đó là điều sẽ xuất hiện bởi mười sự bất tịnh.

Người ta sẽ không kính trọng nhau và xuất hiện kiểu tự tán dương bản thân trong khi chê bai chúng sinh khác. Có bốn giai cấp trong xã hội loài người: những kẻ cai trị, thương nhân, người lao động phổ thông và thầy tu[9]. Nếu tất cả họ đều có sự tin tưởngkính trọng với bản văn này thì thời kỳ sẽ trở nên tốt đẹp”.

Đức Thế Tôn nói rằng, “Những vị không tin bản văn này sẽ lầm đường lạc lối và đọa vào địa ngục của sự giày vò tột bậc [Địa ngục Vô GiánAvici]. Họ sẽ chẳng nghe được Giáo Pháp và những tiếng than khóc thống khổ của họ sẽ vang khắp đất trời. Một thời kỳ đại dịch sẽ xuất hiện[10]. Viết lại hay trì tụng bản văn Giáo Pháp này ngay khi nghe được sẽ giúp vượt qua mọi bệnh dịch và nạn đói. Nó sẽ đem đến sự tái sinh tốt lành.

Có bảy kiểu khổ đau trên thế giới này[11]: đầu tiên, có khổ đau của nóng và lạnh trong các địa ngục; thứ hai, khổ đau của đói và khát trong cõi ngạ quỷ; thứ ba, khổ đau của vô minhmê lầm trong cõi súc sinh[12]; thứ tư, khổ đau của sinh, lão, bệnh và tử, cũng như thiếu các tự do, nghèo đói và sự trung thành với các tà kiến trong cõi người[13]; thứ năm, khổ đau của thù địchxung đột trong cõi A-tu-la[14]; thứ sáu, khổ đau của cái chết, đầu thaisa sút trong cõi chư thiên[15]; và thứ bảy, khổ đau của [giai đoạn] trung ấm trở thành. Tin tưởng vào bản văn này, điều sẽ đem đến lợi lạc trong những hoàn cảnh như vậy, sẽ khiến mọi mong ước được viên thànhtiêu trừ mọi bệnh tật. Nó sẽ đem đến phước lành của thời trước đó.

Con có thể băn khoăn tại sao lại như vậy. Trong một năm Hỏa Ngọ đực[16], một thiên thạch lớn bằng khối đá to[17] từ cõi hư không sẽ rơi xuống bờ của một vùng nước rộng[18]. Khi thiên thạch này vỡ ra, bản văn sẽ xuất hiện từ đó. Khi ấy, điều cực kỳ quan trọng là bản văn Giáo Pháp này được trao từ người này sang người khác và không được che giấu hay giữ bí mật. Điều này không dành cho chỉ một hay hai cá nhân; nó được viết ra vì lợi ích của tất cả hữu tình chúng sinh. Cầu mong mọi khổ đau của luân hồi chấm dứt!

Trong tương lai, vào cuối giai đoạn năm trăm năm,

Khi những giáo lý của Đức Phật suy giảm,

Khi giới luật của tu sĩ suy giảm,

Khi tâm ngập tràn những ý nghĩ tiêu cực,

Khi người ta tiệc tùng bằng những thệ nguyện bị phá vỡ và ác hạnh,

Khi họ tham gia vào mười bất thiện hạnh,

Khi hành giả Mật thừa trì tụng tà thuật,

Khi năm độc được nuôi dưỡng từ sâu bên trong,

Khi người ta cư xử không đúng về thân và khẩu,

Khi việc giảng dạy Giáo Pháp đang trong sự suy giảm cuối cùng,

Khi lông chim phát triển trên sườn đồi[19],

Khi gỗ được giữ trong hộp sắt[20],

Khi người ta gây ra những hành động tội lỗi,

Tất cả những hành động, lỗi lầm và sai sót này[21],

Chắc chắn sẽ báo trước một thời kỳ khủng hoảng đáng sợ.

Bản văn này, thứ xua tan những hoàn cảnh của một thời kỳ đen tối,

Phải được viết lại hay trì tụng ngay khi nó được nhìn thấy –

Đừng nghi ngờ việc này có đẩy lùi những điều xấu của thời kỳ không.

Biết điều gì đúng và điều gì sai là đủ.

Hãy cùng nhau nói và bày tỏ chỉ sự thật.

Tất cả những kẻ tuyên bố điều này không đúng

Sẽ bị tấn công bởi các triệu chứng của bệnh tật

Từ ngọn tóc trên đầu

Cho đến đầu ngón chân họ”.

Khi Đức Thế Tôn nói điều này, Đấng Đại Bi, Di Lặc, A-nan-đà và toàn bộ thế giới cùng với con người ở đó, chư A-tu-la và Càn-thát-bà đều hoan hỷtán thán kim khẩu của Đức Thế Tôn.

Sau đấy, Đức Thế Tôn dang tay phải, được điểm tô đẹp đẽ bởi các tướng tốt và vẻ đẹp, và chạm xuống đất, nhờ đó, điều phục các thế lực ma quỷ xấu xa cùng đoàn tùy tùng của chúng. Người ta phải rèn luyện trong sự hoàn hảo siêu việt của trí tuệ này, điều đem đến niềm hoan hỷ không thể nghĩ bàn cùng sự an lành trong tâm, đánh bại và xoa dịu bệnh tật cùng các thế lực ma quỷ. Sau đó, Đức Thế Tôn nhập vào định như [sông] Hằng[22]tuyên thuyết bản văn này, thứ tóm tắt mọi giáo lý xuất sắc của các Kinh điển.

[Tôn giả] A-nan-đà tiếp đó lại bạch Đức Thế Tôn một lần nữa: “Bạch Đức Thế Tôn, Giáo Pháp này mà Ngài đã giảng dạy là để đẩy lùi các chướng ngạihoàn cảnh tiêu cực trong luân hồi. Trong năm Thổ Thân đực, một đại dịch sẽ xuất hiện và điều quan trọng là có một phương tiện sâu xa để đề cập đến nó. Nếu chúng sinh nghi ngờ tính chân thật của điều này và chẳng tin tưởng bản văn này, thờ ơ vì thiếu quan tâm đến mức nó không được truyền bá[23], điều đó sẽ làm hài lòng những thế lực ma quỷ. Nhưng nếu bản văn này được sao chép và tin tưởng, điều đó sẽ đem đến rất nhiều hạnh phúc. Bản văn Giáo Pháp này sẽ đem đến sự trợ giúp”.

Đức Thế Tôn đáp rằng[24]:

“Lành thay, vui thay. Điều đấy vô cùng tốt lành.

Điều này sẽ được giảng dạy khắp nơi từ lúc đầu,

của cải tốt lành của thiện hạnh sẽ đến.

Công đức và các phẩm tính sẽ hoàn toàn mở ra.

Tất cả chư Phật hoàn hảo đã nói như vậy.

Nan-đà, U-pa-nan-đà và những vị còn lại,

Hãy nỗ lực trong điều này, thứ làm lợi lạc chúng sinh.

Trong tương lai, vào cuối thời kỳ,

Công đức của điều này sẽ chẳng thể nghĩ bàn.

Với bất kỳ ai tin tưởng điều này,

Mọi mong ước sẽ viên thành,

Các chướng ngạinghịch cảnh sẽ bị trục xuất.

Một người tin tưởng những giáo lý của Đức Phật

Cần dâng cúng dường bằng hương và hoa”.

Sau đó, Đấng Bảo Hộ Di Lặc nhìn ra từ cõi giới của hư không và thấy rằng con người đang đổ những giọt lệ máu. Ngài đến trước Đức Thế Tôn và bạch rằng, “Bạch Đức Thế Tôn, con thỉnh cầu Ngài trao một Giáo Pháp cho tương lai, thứ truyền tải thông điệp chỉ trong vài từ ngữ nhưng chứa đựng sự gia trì lớn lao”.

Đức Thế Tôn đáp rằng:

“Này Di Lặc, điều đó thật tốt lành.

Hãy lắng nghe lời này của Ta.

Nó được trao vì tất cả chúng sinh

Bao gồm cả những vị như Phạm ThiênĐế Thích.

Để làm lợi lạc mọi chúng sinh đang sống,

Ta đã khẩu truyền lại thông điệp này.

Nó cần được kính trọngtinh tấn áp dụng,

Bởi nó sẽ đem lại sự trù phú của thiện hạnh.

Sau đó, trong tháng đầu tiên của mùa thu của năm Hỏa Ngọ đực và trong năm Thổ Thân đực, những kẻ xấu xa, thiếu niềm tin với bản văn này, sẽ chết. Những người sao chép hay trì tụng bản văn này sẽ sống cuộc đời trường thọ, tận hưởng sức khỏe tốt và có nhiều công đức. Mọi thế lực gây hại của thời kỳ đen tối này sẽ lang thang khắp các thị trấn. Vô hình với con người, chúng sẽ đi qua những nơi không chắc chắn trong khi vẫn ẩn mình. Lúc ấy, sự gia trì của bản văn Giáo Pháp này sẽ khiến mọi tinh linh, thế lực xấu và ảnh hưởng gây hại rùng mìnhlẩn trốn. Điều cực kỳ quan trọng là bản văn này được phổ biến khắp mọi nơi. Đừng xem nó là không đúng hay nuôi dưỡng nghi ngờ.

Với những vị thiếu niềm tin với Giáo Pháp này, điều được giảng dạy bởi Đức Phật thông tuệđáng kính, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Đấng Dẫn Dắt Và Điều Phục Chúng Sinh, Thiên Nhân Sư Vô Song, Đấng Điều Phục Giác Ngộ Siêu Việt, một trận động đất lớn sẽ xuất hiện trong một năm Hỏa Ngọ. Khủng hoảng xảy đến lúc ấy sẽ tăng thêm trong năm Hỏa Mùi cái và một số người sẽ nhiễm bệnh bởi sự ô nhiễm (grib) và qua đời[25]. Một số sẽ chết trên đường và một số chết bởi lở đất[26].

Trong một năm Thổ Thân đực sẽ có lũ lụt khủng khiếp. Trong mùa hè, bệnh tật mà nạn đói đem đến sẽ gây ra cái chết. Khi ấy, các tinh linh gây hại sẽ tràn ngập vùng đất. Sao chép và trì tụng giáo lý này sẽ cung cấp sự bảo vệ chống lại những ảnh hưởng gây hại và kẻ gây chướng.

Trong một năm Thổ Dậu cái, điều vô cùng quan trọng là tránh làm hại chúng sinh khác, từ bỏ tiêu thụ thịt hay máu và giữ gìn giới luật.

Trong một năm Kim Tuất đực, các vùng đất và thành phố sẽ đầy hổ, báo, gấu, sói và chó rừng. Điều quan trọng lúc ấy là sao chép và trì tụng Giáo Pháp này như một phương tiện giải thoát cho con người.

Trong một năm Kim Mùi cái[27], mọi hữu tình chúng sinh sẽ mất sự tự chủ, giống như giấy bị gió thổi đi hay một hồ lớn dâng lên và ngập tràn. Lúc ấy, những vị thiếu niềm tin với bản văn này sẽ chết”.

Sau đấy, Đức Thế Tôn nói với Đấng Đại Bi:

“Trong một năm Tý, âm thanh du dương của Giáo Pháp sẽ dội vang từ cõi giới của hư không. Lúc ấy, nếu người ta sao chép hay trì tụng bản văn này, thứ soi sáng khắp bốn phương tám hướng bằng sức mạnhnăng lực của ân phước gia trì từ Đức Phật, giống như ánh sáng của mặt trời và trăng, nó sẽ đem đến lợi lạc cho đến khi Đức Di Lặc xuất hiện. Đấy là tiềm năng của bản văn này.

Nếu điều này được sao chép hay tụng lớn,

Nó sẽ đem lại công đức như núi.

Trong một cung điện trên Núi Pô-ta-la,

hóa hiện của khẩu Phật,

Được vây quanh bởi đoàn tùy tùng chư Bồ Tát.

Trên, dưới và ở khắp mười phương

Chúng sinh khắp nơi được Ngài dẫn dắt đến hạnh phúc.

Hơn thế nữa, Đấng Đại Bi đã quán sát tất cả loài người bằng lòng bi và phổ biến bản văn này[28]hữu tình chúng sinh. Khi nó bị nghi ngờ và xem là không đúng, trong những tháng đầu tiên và tháng giữa của mùa hè, một dịch bệnh sẽ xuất hiện. Người ta sẽ bị bệnh vào buổi sáng và qua đời vào buổi tối[29]. Lúc ấy, khi thời kỳ khủng hoảng xảy ra, cây cối và rừng rậm sẽ bị đốn hạ, núi đá sẽ sụp đổ từ chân và trái đất sẽ rúng động, như thể không thể nào đứng yên. Chưa đến một phần mười con người còn lại. Đừng nghĩ rằng điều này không đúng, bởi đó là lời của Đức Thế Tôn[30]. Tất cả chúng sinh thật đáng thương làm sao!

Sau đấy, trong một năm Hỏa Mùi cái và Thổ Thân đực, giai đoạn ‘năm trăm năm’ xấu xa sẽ xuất hiện. Xung đột sẽ khởi lên từ khắp mọi nơi – bốn phương và tám hướng. Loài người sẽ cãi cọ và đánh nhau[31]. Đây là một Giáo Pháp giải thoát khỏi những tàn phá của thời kỳ. Sao chép và trì tụng nó ngay khi nhìn thấy sẽ giúp vượt qua xung đột. Bản văn này, thứ đem đến sự an lành nếu được sao chép hay trì tụng, sẽ đem đến công đức vô lượnggiải thoát khỏi mọi sợ hãilo âu.

Bản văn Giáo Pháp này không chỉ dành cho một hay hai cá nhân; nó được biên soạn vì tất cả hữu tình chúng sinh. Nếu bản văn Giáo Pháp này được phân phát trên khắp các vùng đất ở mọi phía, con người sẽ tận hưởng hạnh phúcan lành xuất sắc. Nhờ sự phong phú của thiện hạnh[32], những khổ đau của hữu tình chúng sinh sẽ chẳng còn nữa.

Nếu bản văn này không được tinh tấn nhớ lại trong năm hay sáu tháng, một thời kỳ của những bệnh dịch sẽ xuất hiện. Một số sẽ chết vì bệnh sốt; một số chết vì cảm lạnh; một số phát điên và chết[33]; một số chết vì căn bệnh về cổ họng[34]; một số chết vì căn bệnh về tim; một số trải qua cơn đau về ruột rồi chết; một số chết vì căn bệnh về gan. Có một phương thuốc cho những tinh linh gây hại và bệnh tật này[35].

Những người con trai và gái của gia đình cao quý cần giữ trên thân họ bản văn này, thứ ngăn ngừa và chữa lành những kiểu bệnh tật và ảnh hưởng gây hại. Mật chú ngăn ngừagiải thoát khỏi mọi tinh linh linh thiêng, tinh linh Na-ga [rồng], tinh linh căn bản và bệnh dịch – Emaho, p'en no p'en no svāhā (ཨེ་མ་ཧོ། ཕན་ནོ་ཕན་ནོ་སྭཱ་ཧཱ།)[36] – cần được đeo bởi nam giới về bên phải và nữ giới về bên trái. Nhờ làm vậy, họ sẽ thoát khỏi mọi bệnh dịch và có được một tái sinh tốt lành. Không nghi ngờ gì, sao chép, trì tụng và có niềm tin với điều này sẽ đem đến sự tự do thoát khỏi biển máu khổ đau, tức luân hồi.

Tất cả con người giữa trời và đất thật đáng thương làm sao![37] Cầu mong mọi bệnh tật gây ra cái chết phi thời trong cõi người đều hoàn toàn được xoa dịu! Cầu mong chúng sinh có được sự tốt lành của những thời đã qua! Cầu mong họ sở hữu công đức chẳng thể đo lường!

Những kẻ không tin tưởng bản văn Giáo Pháp này sẽ chẳng được giải thoát[38]. Các thị trấn sẽ ngập tràn những kiểu tinh linh gây hại khác nhau. Lúc ấy, tiếng khóc của loài người sẽ ngập tràn không gian và vang khắp thế gian[39]. Mặc dù sẽ có trái cây và ngũ cốc bổ dưỡng, mọi người sẽ chẳng có sức mạnh để thọ dụng. Toàn bộ dân chúng sẽ ăn đồ ăn ma quỷ[40].

Sau đó, Đấng Đại Bi Quan Âm tôn quý nói như sau[41] để chúng sinh có thể phát khởi lòng bi trong tâm: “Bạch Đức Thế Tôn, con cầu nguyện rằng Ngài có thể thấm nhuần bản văn này bằng sự gia trì. Hãy thánh hóa nó bằng những sức mạnh kính ái, con cầu nguyện”.

Sau đấy, Đức Thế Tôn nói rằng, “Nếu bản văn này được tôn kính với niềm tin và lòng sùng mộ, thời kỳ xấu xa sẽ chấm dứt. Nó sẽ đem đến vô lượng công đức của sự tự do thoát khỏi mọi kiểu bệnh truyền nhiễm. Hãy để tất cả con người trên trái đất này thoát khỏi xung đột, bệnh tật và thống khổ của một thời kỳ xấu xađạt được mọi sự tốt lành của thời quá khứ[42].

Theo nguyện này vì thiện hạnh[43]đặc biệt nếu điều này được trì tụng trong cả tháng Ngọ[44] và tháng Mão[45], nó sẽ đem đến những phẩm tính lợi lạc không thể tưởng tượng. Những ai sao chép và trì tụng bản văn này sẽ tận hưởng cuộc đời dài lâu, sức khỏe tốt và hạnh phúc[46]. Sao chép một phần bản văn cũng sẽ xoa dịu mọi nguyên nhân nguy hại trong thời xấu xa.

Điều này đã được truyền bá một lần trong một năm Thìn trước kia[47]. Rõ ràng là nó không thể được truyền bá khắp thế giới. Đó là cách mà thời xấu xa đã có sự hiển hiện đầu tiên. Sau này, bản văn được truyền bá trong một năm Hỏa Ngọ đực.

Bản văn Giáo Pháp này là phương tiện đẩy lùi thời xấu xa. Nếu nó không thể được truyền bá trên khắp các vùng đất, mùa màng sẽ bị phá hủy bởi bệnh tàn rụi, mưa đá và sương giá, dẫn đến nạn đói. Một dịch bệnh bởi căn bệnh chẳng thể nhận ra sẽ xuất hiện, đem đến đau đớnthống khổ. Không nghi ngờ gì, sao chép hay trì tụng điều này sẽ đem đến giải thoát khỏi mọi khổ đau.

Cho đến khi Đấng Bảo Hộ Chiến Thắng Di Lặc đến thế gian, bản văn Giáo Pháp này đóng vai trò là chốn nương tựa cho chúng sinh.  Với những kẻ có niềm tin và lòng sùng mộ, hãy để bản văn này tẩy sạch và tịnh hóa mọi hành động gây hại, che chướng và tập khí. Cầu mong mùa màng mãi bội thu! Cầu mong thiện hạnh mãi dồi dào! Cầu mong đây trở thành cội nguồn như ngọc của mọi điều mong ước và mong muốn[48]! Cầu mong mọi sự trên khắp các vùng đất đều cát tường! Cầu mong mọi nơi đều trở nên chói lọi! Hoàn toàn vượt qua bệnh tật, nạn đói và chiến tranh, cầu mong mưa gió đem đến mùa màng tốt tươi và mọi mong ước đều được tự nhiên viên thành! Với của cảithịnh vượng mở rộng đến khắp vùng đất, cầu mong Pháp Luân thường chuyển!

Khi Đức Thế Tôn nói điều này, Đấng Đại Bi, Di Lặc, A-nan-đà và toàn bộ thế giới, bao gồm cả chư thiên, A-tu-la và Càn-thát-bà đều hoan hỷtán thán kim khẩu của Ngài.

Ngọn Đèn Sáng Tỏ Một Tiên Tri Về Tương Lai[49] kết thúc như vậy.

 

Adam Pearcey chuyển dịch Tạng-Anh năm 2020 với sự giúp đỡ hào phóng của Khyentse Foundation và Terton Sogyal Trust cùng sự trợ giúp lịch thiệp của Alak Zenkar Rinpoche.

Nguồn Anh ngữ: https://www.lotsawahouse.org/words-of-the-buddha/clarifying-light-prophecy.

Pema Jyana (Liên Hoa Trí) chuyển dịch Việt ngữ.

 

Nguồn tài liệu được sử dụng trong quá trình chuyển dịch Tạng-Anh:

+) Nguồn Tạng ngữ:

  • A ‘dzom “Ma ‘ongs lung bstan gsal byed sgron me” trong Khams a ‘dzom dgon du bzhugs pa’i dpe rnying dpe dkon/ TBRC W3PD981. 9 vols. vol. 7: 521–544 [Ấn bản Adzom]
  • mChan bu Ma ‘ongs lung bstan gsal byed sgron me. TBRC W8LS19467. 1 vol. [s.l.]: [s.n.], [n.d.]. [Ấn bản Chenbu]
  • NLMa “Ma ‘ongs lung bstan gsal byed sgron me” trong Dam can khrag ‘thung gsol mchod sogs/ (tuyển tập các bản văn được quét ảnh tại Thư Viện Quốc Gia Mông Cổ). TBRC W1NLM182. 1 vol. [s.l.]: [s.n.], [n.d.] [Ấn bản NLMa]
  • NLMb “Ma ‘ongs lung bstan gsal byed sgron me” trong lhag pa’i lha gang yang rung ba’i sgo nas rang gzhan dang dgon grong la byabs khrus rgyun ‘khyer du bya tshul sogs/ (tuyển tập các bản văn được quét ảnh tại Thư Viện Quốc Gia Mông Cổ). TBRC W1NLM195. 1 vols. [s.l.]: [s.n.], [n.d.] [Ấn bản NLMb]
  • NLMc “Ma ‘ongs lung bstan gsal byed sgron me” trong Phongs sel sgrol ma’i sgrub thabs maN+Dal gyi bden cho ga rim sogs/ (tuyển tập các bản văn được quét ảnh tại Thư Viện Quốc Gia Mông Cổ). TBRC W1NLM608. 1 vol. [s.l.]: [s.n.], [n.d.] [Ấn bản NLMc]
  • NLMd “Ma ‘ongs lung bstan gsal byed sgron me” trong Ma ‘ongs lung bstan gsal byed sgron me sogs/ (tuyển tập các bản văn được quét ảnh tại Thư Viện Quốc Gia Mông Cổ). TBRC W1NLM408. 1 vol. [s.l.]: [s.n.], [n.d.] [Ấn bản NLMd]
  • gSung ‘bum “Ma ‘ongs lung bstan gsal byed sgron me” trong ‘Jam dbyangs chos kyi blo gros kyi gsung ‘bum. TBRC W1KG12986. 12 vols. Bir, H.P.: Khyentse Labrang, 2012. Vol. 10: 587–602 [Ấn bản Sungbum].
  • Ya chen “Ma ‘ongs lung bstan gsal byed sgron me” trong Lung bstan phyogs btus/. TBRC W3CN532. 4 vols. dPal yul rdzong /: dPal ya chen o rgyan bsam gtan gling /, 2016. Vol. 1: 1–9 [Ấn bản Yachen]

+) Nguồn Anh ngữ:

  • Karma Sungrab Gyatso (Stephen B. Aldridge). The Light That Makes Things Clear: A Prophecy of Things to Come. https://www.shroomery.org/forums/showflat.php/Number/2787246 (truy cập 15/4/2020)
  • Nattier, Jan. Once Upon a Future Time: Studies in a Buddhist Prophecy of Decline. Berkeley: Asian Humanities Press, 1991.


[1] Về Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a32327/cuoc-doi-duc-jamyang-khyentse-chokyi-lodro.

[2] Bản văn này được miêu tả là một phát lộ của Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, dường như bởi vì nó nằm trong các trước tác được tuyển tập của Ngài – ấn bản 2012 (chứ không phải các ấn bản trước đó); tuy nhiên, sự thêm vào này là bởi vai trò của Ngài trong việc kết tập bản văn. Ấn bản Yachen kết thúc bằng chú thích sau đây: “Mặc dù xuất hiện hai ấn bản khác nhau của tiên tri về tương lai này bởi bậc thầy thù thắng, chúa tể của những vị thánh giả, điều này được rút ra từ bản gốc mà Khyentse Chokyi Lodro, đích thực Kim Cương Trì, đã kết tập vì lợi ích của chúng sinh thời suy đồi và điều được in ở Delhi vào năm 1979 bởi Tsering Tashi từ Sikkim, thư ký nhà xuất bản của Gyalwang Karmapa”.

[3] Trong Ấn bản Chenbu, trước sự kính lễ này là Namo guru lokesvaraye.

[4] Tháng Dần là tháng đầu tiên của năm.

[5] Ấn bản Yachen: rang gi rjes su 'brang dbang med. Ấn bản Sungbum: rang gi spyod dbang med.

[6] Ấn bản Yachen: lam la ‘gro bar mig gis mi mthong. Ấn bản Sungbum: lam la ‘gro ba’i mi mi mthong (“những người du hành trên các con đường sẽ vô hình”).

[7] Ấn bản Yachen: rgyal khams kyi khang pa rnams stongs par 'gyur ro. Ấn bản Sungbum: rgyal khams dang khang pa rnams stong par 'gyur (“các quốc gia và nhà cửa sẽ trở nên tiêu điều”).

[8] Ấn bản Yachen: chags med du. Ấn bản Sungbum: cha med du.

[9] Đây là bốn tầng lớp (varna) của xã hội Ấn Độ: những vị cai trị hay chiến binh (ksatriya), thương nhân (vaisya), người lao động phổ thông (sudra) và thầy tu (brahmana).

[10] Ấn bản Sungbum có: tshe ‘di la yang (“thậm chí trong chính đời đó”). Ấn bản Yachen bỏ đoạn này.

[11] Theo Ấn bản Sungbum ở đây là: ‘jig rten na sdug bsngal bdun yod. Ấn bản Yachen: mi la sdug bsngal bdun yod.

[12] Bản dịch tuân theo Ấn bản Sungbum: dud ‘gro blun rmongs kyi sdug bsngal. Ấn bản Yachen liệt kê khổ đau thứ ba là khổ đau của A-tu-la.

[13] Theo Ấn bản Sungbum: mi la skye rga na ‘chi dang mi khom pa dang dbul ‘phong lta ba log ‘dzin gyi sdug bsngal.

[14] Bản dịch ở đây tuân theo Ấn bản Sungbum. Ấn bản Yachen liệt kê khổ đau thứ năm là khổ đau của việc giữ tà kiến.

[15] Bản dịch tuân theo Ấn bản Sungbum. Ấn bản Yachen đơn giản là: lha tshe ring po’i sdug bsngal.

[16] Hệ thống lịch Tây Tạng tuân theo chu kỳ 60 năm. Các năm được xác định bởi một trong 60 tên gọi tạo thành bằng một yếu tố (Thổ, Hỏa, Thủy, Mộc và Kim) và một con vật (Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu và Dần) – chú thích của người dịch Việt ngữ.

[17] Bản dịch tuân theo Ấn bản Yachen: pha bong tsam. Ấn bản Sungbum nói đến bong ba tsam (“kích cỡ của một cục đất”).

[18] Cụm từ trong Tạng ngữ ở đây (mtsho chen po) có thể chỉ ra biển hoặc một hồ lớn.

[19] Alak Zenkar Rinpoche (AZR): Điều này có thể liên quan đến những người không kiên định, không ổn định, người trốn đến những khu nhập thất trên núi thay vì những hành giả ổn định hơn.

[20] AZR: Điều này có thể liên quan đến những hành giả tài năng đang bị che giấu hay duy trì sự khiêm cung. Hãy nghĩ về một thanh kiếm luôn được giữ trong vỏ khiến chẳng ai biết về sự sắc bén và mạnh mẽ của nó.

[21] Bản dịch tuân theo Ấn bản Yachen: las rnams nyes skyon de rnams kun. Ấn bản Sungbum có las ngan nyes rkyen de rnams kyis (“những hành động xấu xahoàn cảnh gây hại này”).

[22] Theo Ấn bản Yachen: gaṅgā'i ting nge 'dzin. Ấn bản Sungbum có gang gi ting nge 'dzin.

[23] Ấn bản Sungbum có btang snyoms su lus nas (“thờ ơ vì thiếu quan tâm”) nhưng điều này bị bỏ qua trong Ấn bản Yachen.

[24] Ấn bản Sungbum có bcoms ldan ‘das kyis (“Đức Thế Tôn đáp rằng”); Ấn bản Yachen bỏ qua điều này.

[25] Theo Ấn bản Adzom: mi la la grib kyi nad kyis zin nas ‘chi. Các Ấn bản NLMa, NLMb, NLMc, Yachen và Sungbum có ‘gril nas ‘chi (“đồng loạt qua đời”?) ở đây.

[26] Theo Ấn bản Adzom: sa rnyil nas ‘chi. Ấn bản Yachen: la la dran pa snying nas ‘chi. Ấn bản Sungbum: la la ni dran pa nyams nas ‘chi (“một số sẽ bất tỉnh và qua đời”).

[27] Bản dịch tuân theo Ấn bản Yachen và Sungbum. Các Ấn bản Adzom, NLMa, NLMb và NLMc nói đến Hợi (phag) thay vì Mùi (lug) ở đây.

[28] Bản dịch tuân theo Ấn bản Adzom. Các Ấn bản Yachen và Sungbum bỏ qua yi ge ‘di (“bản văn này”).

[29] Bản dịch tuân theo Ấn bản Sungbum: snga ‘dro na nas dgong mo ‘chi. Ấn bản Yachen: nam lang nas dgung mo ‘chi. Ấn bản Adzom: nam lang nas dgong mo’i bar la ‘chi.

[30] Bản dịch tuân theo các Ấn bản Sungbum và Adzom. Ấn bản Yachen: mi bden bsam na bcom ldan ‘das kyi bka’i yin (“Con có thể nghĩ điều này không đúng, nhưng đây là lời của Đức Thế Tôn”).

[31] Theo Ấn bản Yachen: nang dme byed. Ấn bản Sungbum: rme byed nas zad (“đánh nhau và trở nên tuyệt chủng”?).

[32] Theo Ấn bản Sungbum: dge ba phun sum tshogs pa yis. Các Ấn bản khác dùng yin thay vì yis.

[33] Ấn bản Sungbum: la la smyo nas ‘chi. Ấn bản Adzom: la la ni myid pa na nas ‘chi (“một số sẽ qua đời vì bệnh về cổ họng”).

[34] Ấn bản Yachen: la la ni lkog ma na nas ‘chi.

[35] Ấn bản Adzom: gdon nad de rnams la sman yod do/. Dòng này bị bỏ trong Ấn bản Sungbum.

[36] Theo các Ấn bản Sungbum và Yachen: e ma ho/ phan no phan no svāhā/. Các Ấn bản Adzom và Chenbu: e ma ho/ oṃ ma phan ni phan ni svāhā/.

[37] Theo các Ấn bản Yachen, Adzom, Chenbu: gnam sa'i bar gyi mi rnams thams cad snying re rje/. Ấn bản Sungbum: 'jig rten khams kyi mi rnams snying re rje/ (“Con người thế giới này thật đáng thương làm sao!”).

[38] Bản dịch tuân theo các Ấn bản Sungbum, Adzom và Chenbu. Các Ấn bản Yachen, NLMa, NLMb và NLMd có sngon yang, điều sẽ biến cả câu thành: “Trong quá khứ, với những kẻ thiếu niềm tin với bản văn Giáo Pháp này, sẽ chẳng có giải thoát”.

[39] Ấn bản Sungbum: de dus mi rnams ngu ‘bod kyis gnam sa gang. Dòng này bị bỏ qua trong Ấn bản Yachen.

[40] Ấn bản Sungbum: mi grangs mang pos bdud zas byed. Dòng này xuất hiện trước đó và khác biệt trong một số Ấn bản. Ấn bản Chenbu: mi grangs mang yang bdud zas byas. Ấn bản Adzom: mi grangs med kyang bdud zas byed. Các Ấn bản NLMa, NLMb, NLMc và NLMd: mi grangs kun kyang bdud zas byed. Ấn bản Yachen bỏ dòng này.

[41] Ấn bản Yachen: gsung pa’i yan lag. Các Ấn bản Adzom và Chenbu: bsrung ba’i sngags (“Mật chú bảo vệ”). Các Ấn bản NLMa, NLMb, NLMc: bsrung ba’i legs (“sự tốt lành bảo vệ”). Ấn bản NLMd: bsrung ba’i srung ba’i sngags.

[42] Có sự thay đổi đáng kể giữa các Ấn bản ở đây. Hầu hết những khác biệt đều nhỏ. Tuy nhiên hãy lưu ý rằng Ấn bản Sungbum bỏ qua sngon gyi (“quá khứ”).

[43] Ấn bản Chenbu bỏ qua dge ba’i phyir.

[44] Tức tháng thứ nhất.

[45] Tức tháng thứ hai.

[46] Bản dịch ở đây tuân theo các Ấn bản Yachen, Adzom và Chenbu. Các Ấn bản Sungbum, NLMa, NLMb, NLMc, NLMd biến câu này thành mệnh lệnh bằng cách kết thúc bằng gyur cig.

[47] Ấn bản Sungbum: ‘di sngon byung ‘brug lo la gcig dar/. Ấn bản NLMa dùng thal thay vì dar. Ấn bản Chenbu: sngon ‘drug lo nang la cha gcig song yang/.

[48] Bản dịch ở đây tuân theo các Ấn bản Adzom, Chenbu, NLMa, NLMc: nor bu lta bu’i dgos ‘dod ‘byung bar gyur cig/. Các Ấn bản Sungbum, Yachen và NLMd bỏ qua lta bu’i.

[49] Ấn bản Chenbu kết thúc bằng những bổ sung sau đây: Cầu mong Giáo Pháp Đại thừa này với tựa đề Ngọn Đèn Sáng Tỏ – Một Tiên Tri Về Tương Lai được viên thành. Đừng nghi ngờ Giáo Pháp này. Điều này được tuyên thuyết trước cội Bồ đề bởi tất cả chư Phật và Bồ Táthữu tình chúng sinh thời suy đồi của giai đoạn năm trăm năm để xua tan những khiếp sợ của thời kỳ đen tối đó. Cầu mong nó lan tỏa khắp hư không. Như Nhập Bồ Tát Hạnh (chương 10, đoạn kệ 37) nói: “Từ tiếng chim và rừng cây xào xạc,/ Từ những tia sáng và thậm chí từ bầu trời,/ Nguyện tất cả chúng sinh mãi thấy được/ Âm thanh Giáo Pháp trong dòng chảy liên tục”. Theo đó, tiên tri này được Đức Phật tuyên thuyết đầu tiên giáng hạ từ cõi giới của hư không trong một năm Hỏa Ngọ đực trước kia. Sau đấy, Quán Thế Âm cao quý phổ biến nó trong khắp các vùng đất vì lợi ích của chúng sinh. Trong tương lai, từ năm Hỏa Ngọ đực trở đi, bởi người ta nói rằng những khủng hoảng khác nhau sẽ dần dần xuất hiện, điều quan trọng là cầu nguyện đến Tam Bảo, những cội nguồn quy y không vơi cạn và đặc biệtQuán Thế Âm, đấng bảo hộ của Xứ Tuyết. Điều cũng vô cùng quan trọng là trưởng dưỡng thiện hạnhtừ bỏ ác hạnh và trên tất thảy, tinh tấn ghi chép và trì tụng bản văn tiên tri này như một phương tiện để đẩy lùi những khủng hoảng khác nhau mà nó tiên đoán. Cầu mong đây là nguyên nhân cho sự bảo vệ tạm thời khỏi sợ hãixoa dịu bệnh tật, nạn đói và xung độtrốt ráo, sự thành tựu trạng thái toàn tri. Lưu ý này được viết bởi vị tên là Chö. Nguyện tốt lành. Nguyện cát tường.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 292)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 289)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng
(Xem: 382)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 755)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 747)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 861)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 836)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1127)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1365)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1151)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2448)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1836)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3536)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1668)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2608)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2375)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2030)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2985)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2073)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2400)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1841)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1731)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2464)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1534)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2835)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1893)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3812)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2144)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1976)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2535)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4511)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1943)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2839)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1663)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2565)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2651)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2046)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3632)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3091)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2015)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2069)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2393)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2085)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1931)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2477)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2149)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2174)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2589)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3665)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2244)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3346)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3021)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 2635)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3916)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5336)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3875)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2799)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2528)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2739)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
(Xem: 3726)
Với những vị nhấn mạnh duy nhất vào việc trưởng dưỡng Bồ đề tâm trong cuộc đời, lời khuyên thích hợp cho họ khi tiến gần đến cái chết là nương tựa năm sức mạnh để định hướng lối đi của họ đến đời sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant