CÁCH THỨC THỌ NHẬN QUÁN ĐỈNH
Khenpo Tsultrim Lodro Rinpoche[1] giảng
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
Bồ đề tâm được định nghĩa khác biệt trong Mật thừa và Kinh thừa. Bồ đề tâm trong Kinh thừa là mong ước đạt Phật quả vì lợi ích của hữu tình chúng sinh nhờ các phương pháp trong Kinh điển, nhưng Phật quả đạt được sau ba vô lượng kiếp. Bồ đề tâm trong Mật thừa là mong ước đạt Phật quả trong đời này vì lợi ích của hữu tình chúng sinh nhờ các phương pháp trong Mật thừa. Nếu điều đó là không thể, người ta cần đạt Phật quả trong trung ấm Bardo; nếu điều đó cũng lại không thể, họ cần thề sẽ chứng ngộ Phật quả trong đời sau.
Người ta nói rằng trong Mật thừa, một hành giả, vị giữ gìn các giới luật Mật thừa, sẽ đạt giác ngộ trong vòng bảy đời.
Một người phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận quán đỉnh lần đầu tiên sẽ chính thức là một hành giả Kim Cương thừa. Sau đó, người ấy không chỉ là một Phật tử mà còn là một người trên con đường giải thoát, không chỉ là một người trên con đường giải thoát mà còn là một người trên con đường giải thoát của Đại thừa, không chỉ một người trên con đường giải thoát của Đại thừa mà còn là một người trên con đường Kim Cương thừa.
Do đó, quán đỉnh vô cùng quan trọng trong thực hành Kim Cương thừa. Một người chưa thọ nhận quán đỉnh thì không được phép nghe và tiến hành các thực hành Mật thừa thực sự. Nếu người ta dự định thực hành Kim Cương thừa, bước đầu tiên phải là thọ nhận một quán đỉnh.
Tuy nhiên, hiện tại, có hai vấn đề với các quán đỉnh:
Thứ nhất, các hành giả không biết những phẩm chất nào mà người ban quán đỉnh và người thọ nhận quán đỉnh cần sở hữu hay điều gì mong chờ họ trước và trong quán đỉnh. Nếu đạo sư kim cương ban quán đỉnh không đủ phẩm tính, quán đỉnh sẽ không trọn vẹn; nó thậm chí có thể khiến cho người kia không thọ nhận được. Nếu đạo sư kim cương đáp ứng những yêu cầu cần thiết, người [học trò] vẫn không thể thọ nhận quán đỉnh nếu bản thân anh ta chưa đủ phẩm tính.
Thứ hai, các hành giả không biết điều gì mong chờ họ sau quán đỉnh. Vì thế, họ vi phạm các giới luật Mật thừa ngay sau khi thọ nhận quán đỉnh. Về cơ bản, các giới luật Mật thừa và những nghi thức tương ứng được ban trong quán đỉnh; chúng cần được giữ gìn sau lễ [quán đỉnh]. Nhưng nhiều người đã thọ nhận các quán đỉnh trong nhiều năm thực sự cũng chẳng biết rằng thọ nhận quán đỉnh cho thấy việc chấp nhận các giới luật Mật thừa; không nhận ra rằng những giới luật này cần phải được tuân thủ, họ không biết họ đã và đang vi phạm các giới luật; họ cũng chẳng biết cách sám hối. Điều này là rất vô trách nhiệm. Chúng ta cẩn trọng về việc giữ gìn năm giới luật cư sĩ căn bản, nhưng lại chẳng quan tâm đến việc giữ gìn các giới luật Mật thừa, điều mà nếu bị vi phạm, sẽ tạo thành sự vi phạm nghiêm trọng hơn rất nhiều.
Ở đây, tôi muốn nhắc mọi người rằng, sau quán đỉnh, chúng ta phải nghiên cứu mười bốn giới luật Mật thừa gốc hay các giới luật tương ứng với quán đỉnh và giữ giới của mình.
Dĩ nhiên, không nhất thiết phải thực hành Mật thừa để là một Phật tử; nếu chúng ta lựa chọn Tịnh Độ Tông hay Thiền Tông trong Phật giáo Trung Hoa, chúng ta không cần thọ nhận một quán đỉnh hay lo lắng đến việc phá vỡ các giới luật Mật thừa. Tuy nhiên, nếu chúng ta dự định thực hành Mật thừa, điều cần thiết là được thông tin đầy đủ. Một sự thảo luận về quán đỉnh có thể được tìm thấy trong chương “Đạo Sư Kim Cương và Quán Đỉnh[2]”. Chủ đề này sau đây sẽ được thảo luận thêm.
1. MỤC ĐÍCH CỦA QUÁN ĐỈNH
Thuật ngữ Abhiseka trong Phạn ngữ để chỉ quán đỉnh hay lễ nhập môn có hai kiểu ý nghĩa. Một là truyền cho. Phật tính của chúng ta không cần một sự truyền cho từ bên ngoài, bởi nó đã tự nhiên hiện hữu, nhưng nhìn bề ngoài, một quán đỉnh truyền sức mạnh nhất định giúp đánh thức Phật tính. Thứ hai là phá hủy, đẩy lùi tham, sân, si và những che chướng khác của chúng ta.
1.1. Đánh Thức Phật Tính
Nền tảng (như trong nền tảng, con đường và kết quả được giảng giải trong Mật thừa) là cố hữu trong mỗi hữu tình chúng sinh. Từ quan điểm của Mật thừa, tinh túy của năm độc của chúng ta – tham, sân, si, kiêu ngạo và hoài nghi – là trí tuệ năm phần của năm gia đình Phật. Thực sự, trí tuệ năm phần của Đức Phật và năm gia đình Phật là một và giống nhau. Trí tuệ năm phần của Đức Phật là tinh túy của năm gia đình Phật. Năm kiểu trí tuệ cũng được gọi là năm gia đình Phật; năm gia đình Phật là sự hiển bày của năm kiểu trí tuệ. Trí tuệ năm phần là trạng thái Phật quả; với chư Bồ Tát, trí tuệ này hóa hiện thành năm gia đình Phật.
Năm gia đình Phật hay năm kiểu trí tuệ là bản tính cơ bản của tâm chúng ta. Trước khi nghiên cứu Phật giáo và thọ nhận quán đỉnh, Phật tính của chúng ta về cơ bản thì tiềm tàng. Mục đích của quán đỉnh là đánh thức Phật tính của chúng ta và khiến nó hiển bày trọn vẹn. Dĩ nhiên, ở mức độ căn bản, Phật tính vô điều kiện vượt khỏi sự hoạt hóa, nhưng về mặt hiện tượng, quá trình hoạt hóa tồn tại.
Có ba kiểu giác ngộ:
Ở cấp độ cao nhất, người ta đạt Phật quả lập tức khi thọ nhận quán đỉnh; trạng thái Phật quả đạt được tức thì mà không phải thực hành trên các con đường của sự thấy và thiền định [Kiến Đạo và Tu Đạo]. Nhưng điều này cực kỳ hiếm, bởi chỉ có một hay hai ví dụ như vậy trong các thành tựu giả (siddha) Ấn Độ trong lịch sử Phật giáo Kim Cương thừa. Trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng, có những ví dụ về sự chứng ngộ bất ngờ nhưng không phải về Phật quả.
Ở cấp độ trung bình, người ta đạt được sự chứng ngộ bất ngờ khi thọ nhận quán đỉnh. Trong bất kỳ quán đỉnh nào của Đại Viên Mãn Dzogchen, tri kiến Dzogchen được giải thích. Sự chứng ngộ là không thể nếu người ta không hiểu ngôn ngữ và không có sự chuyển dịch. Tuy nhiên, nếu các điều kiện thích hợp hội đủ – sự chuyển dịch được tiến hành và tương đối chuẩn xác, đạo sư kim cương sở hữu công đức và đệ tử trưởng thành về mặt tâm linh, tức là anh ta có niềm tin không dao động với Mật thừa và Tam Bảo và đã hoàn thành các thực hành sơ khởi bên ngoài và bên trong – nhờ ân phước gia trì của đạo sư kim cương, một người có thể đạt chứng ngộ khi thọ nhận quán đỉnh, đặc biệt là quán đỉnh ngữ quý báu, quán đỉnh cấp độ thứ tư và cao nhất trong Mật thừa. Thực sự, trong Phật giáo Trung Hoa, có những vị đã đạt chứng ngộ bất ngờ với các hoàn cảnh đặc biệt; ví dụ, Lục Tổ Huệ Năng đã chứng ngộ khi Ngũ Tổ giải thích một đoạn kệ trong Kinh Kim Cương cho Ngài. Nhưng kiểu chứng ngộ này chỉ được xem là giai đoạn ban đầu của giác ngộ, chứ chưa phải Phật quả. Trong năm con đường đến giải thoát trong Kinh thừa và Mật thừa, nó là một phần của con đường chuẩn bị, thậm chí không phải sơ địa trên con đường của sự thấy, chứ đừng nói đến bát địa hay thập địa.
Ở cấp độ thấp nhất, người ta không đạt được Phật quả hay chứng ngộ; họ thậm chí chẳng cảm thấy điều gì đặc biệt. Tuy nhiên, thực hành của đạo sư kim cương, sức mạnh của quán đỉnh và thực hành quán tưởng của đệ tử hội tụ và đóng vai trò là các điều kiện có thể hoạt hóa Phật tính tiềm tàng trong tâm vị ấy và thúc đẩy anh hay cô ấy một cách nhanh chóng hướng về sự giác ngộ rốt ráo.
1.2. Ban Sự Cho Phép
Nếu một người thực hành Mật thừa mà trước tiên không thọ nhận quán đỉnh, chẳng có gì thực chất sẽ đến từ đó. Không những thế, anh ta sẽ phạm phải sự trộm Pháp bởi không tuân thủ các quy tắc.
Sau quán đỉnh, hành giả có quyền nghiên cứu các bản văn Mật thừa, tiến hành thực hành, trì tụng Chân ngôn Bổn tôn và hoằng dương Mật thừa. Một cách tự nhiên, có nhiều cấp độ quán đỉnh; vài quán đỉnh cho phép người đó thực hành nhưng không giảng giải giáo lý, số khác cho phép người đó thực hành cũng như hoằng dương giáo lý.
2. NHỮNG PHẨM CHẤT CHO QUÁN ĐỈNH
2.1. Các Yêu Cầu Với Đạo Sư Kim Cương
Vị ban quán đỉnh được gọi là đạo sư kim cương. Các bản văn, đặc biệt là những trước tác Mật thừa, quy định rõ ràng nhiều phẩm chất của đạo sư kim cương; mọi người có thể tham khảo những bản văn Dzogchen, chẳng hạn Tìm Kiếm Sự Nghỉ Ngơi Trong Bản Tính Tâm của Tôn giả Longchenpa và Lời Vàng Của Thầy Tôi[3]. Trong Mật thừa, người ta có thể thọ nhận quán đỉnh chỉ từ một đạo sư đủ phẩm tính; nếu không, thọ nhận quán đỉnh cũng giống như không thọ.
Để trở thành một đạo sư kim cương, cũng có những yêu cầu đặc biệt:
a) Vị ấy không vi phạm các giới luật Mật thừa, điều dẫn đến sự tổn thất hay ô nhiễm tinh túy của giới luật.
b) Vị ấy phải đạt được sự tập trung thiền định trong các thực hành giai đoạn phát triển[4] và hoàn thiện, mặc dù không nhất thiết phải là một cấp độ thành tựu cao, chẳng hạn sơ địa [Bồ Tát] trở lên.
c) Vị ấy phải hoàn thành thành công thực hành Bổn tôn chính yếu của quán đỉnh trong khóa nhập thất nghiêm ngặt. Mặc dù lượng thời gian cần dành cho thực hành thì không được quy định, vị ấy phải hoàn thiện sự trì tụng Chân ngôn Bổn tôn một cách nghiêm ngặt đúng theo thực hành.
d) Vị ấy phải có sự thông thạo nghi lễ quán đỉnh từ đầu đến cuối.
Để ban một quán đỉnh, điều quan trọng là đạo sư kim cương cần thỏa mãn bốn điều kiện này; nếu không, người ta không thể nào thọ nhận được quán đỉnh.
Ngày nay, nhiều vị tự xưng là ‘Phật sống’, Khenpo, đạo sư thành tựu, Yogi và Dakini nhan nhản khắp nơi; một người không phân biệt đúng – sai có thể dễ dàng bị lừa dối. Khi đại đạo sư Atisha[5] đến Tây Tạng, đó là một khoảng thời gian nhiễu nhương sau sự khủng bố Phật giáo trong đất nước (trong thời kỳ khủng bố này, các vị Tăng và Ni Tây Tạng bị ép hoàn tục; các tu sĩ không còn được thấy nữa. Nhưng nhiều hành giả cư sĩ Mật thừa đã tránh sự chú ý của người khác, giữ gìn giới luật và truyền thống và sau đấy, hoằng dương toàn bộ giáo lý. Nếu không nhờ có chư vị, ngày nay sẽ không có Phật giáo Tây Tạng). Nhiều vị được-gọi-là đạo sư và trưởng lão Ấn Độ cũng đến Tây Tạng cùng lúc đó, nhưng về cơ bản thì bởi có rất nhiều vàng ở Tây Tạng. Một số bỏ trốn với tiền; số khác trao truyền những giáo lý không hợp lệ, điều để lại ảnh hưởng tiêu cực với nhiều hành giả.
Khi Tổ Atisha sắp viên tịch, Ngài liên tục sách tấn: “Hãy tuân theo những giáo lý trong các Kinh điển; đừng thỉnh cầu giáo lý từ những người Ấn Độ đang tìm kiếm vàng”. Phật Thích Ca Mâu Ni cũng nói với các đệ tử lúc lâm chung rằng: “Hãy tuân theo các giới luật”. Tương tự, chúng ta cần nương tựa giới luật và những lời dạy được viết lại trong các Kinh điển, mặc dù không phải tất cả những vị tự tuyên bố là ‘Phật sống’ và Khenpo đều là kẻ bịp bợm. Khi chúng ta chỉ trích, phê bình tu sĩ và hành giả nói chung, chúng ta đang phạm phải một vi phạm. Nếu chúng ta không tìm kiếm những giáo lý, không có lý do để đánh giá hay kiểm tra họ. Thay vào đó, chúng ta cần kính trọng tất cả những vị đắp y tu sĩ, dù cho họ có giữ gìn hoàn hảo tinh túy của các giới luật hay không; đây là một trong những yêu cầu của việc quy y. Tuy nhiên, nếu chúng ta dự định thọ nhận quán đỉnh hay giáo lý từ một người, trước tiên, chúng ta phải tiến hành sự kiểm tra kỹ lưỡng về người đó.
Trong Phật giáo Kim Cương thừa, một người cần phải quán sát một đạo sư trong khoảng thời gian mười hai năm trước khi quy y với Ngài. Sẽ thế nào nếu chúng ta không có nhiều thời gian đến vậy? Đối với tôi, tôi thường khuyên các học trò đi theo chư đạo sư được công nhận từ thế hệ lớn tuổi hơn ở Tây Tạng, những vị đã trải qua nhiều khó khăn và nhờ đó thành tựu cao trong thực hành của họ. Điều này không phải là không có những đạo sư trẻ tuổi đây đó, nhưng nếu không có cách nào đánh giá một vị, sẽ an toàn hơn nếu làm theo lời đề nghị của tôi.
Hiện nay, có những người sử dụng Phật giáo Kim Cương thừa như một lời bào chữa để ăn thịt, uống rượu, tống tiền và phá vỡ gia đình của người khác; đây đều là những dấu hiệu của một thời kỳ suy đồi. Trong Phật giáo Tây Tạng cũng như trong Phật giáo Trung Hoa, vài người cũng giả mạo là thành viên của cộng đồng tu sĩ. Những yếu tố không mong muốn này tồn tại trong bất kỳ cộng đồng nào; vì thế, chúng ta phải hết sức cẩn thận! Nếu ai đó tự nhận là có sức mạnh siêu nhiên và tuyên bố là anh ta có kết nối quá khứ đặc biệt với một người và người ấy có thể đạt giải thoát nhờ tiến hành thực hành Yab-yum với anh ta, anh ta chắc chắn là kẻ giả mạo. Cùng lúc, chúng ta phải rất rõ ràng rằng đây là vấn đề với riêng một cá nhân, không phải là với Mật thừa. Nếu chúng ta để bản thân bị lừa dối dễ dàng đến vậy, thì đó là vấn đề của riêng chúng ta. Mật thừa không phải như vậy; thực sự, Mật thừa mạnh mẽ phản đối những thực hành như vậy. Văn học Mật thừa nói rằng các hành động lấy danh nghĩa của Mật thừa, chẳng hạn sát sinh, trộm cắp, tà dâm và nói dối, còn nghiêm trọng hơn nhiều những hành động cùng loại thông thường!
Vì thế, trước khi kiểm tra xem liệu một đạo sư có sở hữu những phẩm chất cần thiết, người ta không nên mù quáng thọ nhận quán đỉnh; nếu không, họ sẽ hối tiếc suốt đời. Các quy tắc Mật thừa không thể bị coi thường hay xem nhẹ.
2.2. Các Yêu Cầu Với Một Đệ Tử
a) Xả ly. Nếu mục đích của việc nghiên cứu Phật giáo chỉ là để trường thọ, giàu có và địa vị, người ta không thể thọ nhận quán đỉnh. Bởi Mật thừa được thiết lập dựa trên nền tảng của giới luật Bồ Tát và Biệt Giải Thoát; các giới luật Bồ Tát được thiết lập dựa trên Bồ đề tâm; các giới luật Biệt Giải Thoát thì dựa trên sự xả ly. Nếu bất kỳ nhân tố nào bị thiếu, mục tiêu của chúng ta không thể được hoàn thành.
b) Bồ đề tâm. Mật thừa trước hết là Phật giáo Đại thừa. Không có Bồ đề tâm, nó không thể được gọi là Mật thừa; tính Không cũng không thể được chứng ngộ.
c) Niềm tin với giáo lý Mật thừa. Thậm chí với sự xả ly và Bồ đề tâm, tốt nhất là trì hoãn quán đỉnh nếu vẫn còn thiếu sự xác quyết với giáo lý Mật thừa. Sẽ an toàn hơn nếu thọ nhận quán đỉnh sau khi đã phát khởi niềm tin mạnh mẽ với Mật thừa.
d) Sự hiểu về những giáo lý trong quán đỉnh và khả năng quán tưởng Bổn tôn và đàn tràng Mandala trong quán đỉnh.
e) Khả năng giữ gìn giới luật Mật thừa sau lễ quán đỉnh. Mười bốn giới gốc trong Phật giáo Kim Cương thừa được giải thích trong cuốn sách này và những cuốn sách khác về giới luật. Trước lễ quán đỉnh, người ta cần hiểu những giới luật này và kiểm tra xem liệu có thể giữ gìn chúng hay không. Nếu một người cảm thấy chắc chắn rằng anh ta có thể duy trì giới luật, anh ta có thể thọ nhận quán đỉnh; nếu không, anh ta không nên xem xét nó.
Trong mười bốn giới gốc, không có giới nào không thể được gìn giữ trọn vẹn, nay cả giới luật, điều tương đối dễ bị vi phạm, thứ cấm hành giả Kim Cương thừa chỉ trích hay làm hại về mặt vật lý các anh chị em bạn hữu. Khi một sự đối đầu thỉnh thoảng giữa các hành giả đạo hữu dẫn đến những lời lẽ không dễ chịu, một người có thể lập tức xin lỗi, hứa sửa chữa và tịnh hóa sự vi phạm nhờ ăn năn. Đức Phật đặt ra các giới luật với tiền đề và sự chắc chắn rằng những giới luật này có thể được người bình phàm tuân theo. Nhìn chung, nếu một người có niềm tin sâu sắc với Mật thừa và mong muốn đích thực dành cho giáo lý, anh ta có nhiều khả năng duy trì giới luật mà không phá vỡ.
Một người có năm điều kiện tiên quyết này được cho là bình chứa Giáo Pháp xứng đáng với Mật thừa và vì thế, đủ phẩm tính để thọ nhận các giới luật và quán đỉnh Mật thừa.
3. CÁC LOẠI QUÁN ĐỈNH
3.1. Nền Tảng, Con Đường, Kết Quả
Quán đỉnh đầu tiên trong đời một người được gọi là quán đỉnh nền tảng hay quán đỉnh nguyên nhân. Sau quán đỉnh đầu tiên là quán đỉnh con đường, điều được ban bởi một đạo sư kim cương hoặc được thọ nhận nhờ thực hành Đạo Sư Du Già của chính người đó. Quán đỉnh cuối cùng được ban bởi chư Phật và Bồ Tát mười phương, khi người đó ở địa thứ mười ngay trước khi đạt được địa thứ mười một; nó được gọi là kết quả hay quán đỉnh của trạng thái kết quả. Những giai đoạn này của quán đỉnh cũng được thảo luận trong các bản văn.
Từ quan điểm của chúng ta, quán đỉnh nguyên nhân là quan trọng nhất trong ba giai đoạn của quán đỉnh. Điều này là bởi để thọ nhận một quán đỉnh nguyên nhân chân chính và tiêu chuẩn, một người phải có khả năng tìm được một đạo sư kim cương với công đức. Quán đỉnh con đường có thể được thọ nhận nhờ sự hành trì của bản thân, vì thế, hiệu lực thì giống nhau khi có hay không có một đạo sư kim cương. Về quán đỉnh của trạng thái kết quả, thậm chí còn có ít lý do khiến chúng ta phải lo lắng hơn.
3.2. Bốn Cấp Độ Quán Đỉnh
Trong Tangmi (Đường Triều Mật Giáo) và Phật giáo Shingon, hay ngoại Mật điển, quán đỉnh được trao chỉ là cấp độ đầu tiên. Trong Phật giáo Kim Cương thừa ở Tây Tạng, quán đỉnh bao gồm bốn cấp độ khác nhau; nó được gọi là nội Mật điển bởi bản chất sâu xa hơn của kiểu quán đỉnh này.
Tri kiến, thực hành và quán đỉnh trong ngoại Mật điển nằm đâu đó ở giữa Kinh thừa và nội Mật điển. Các cấp độ quán đỉnh cao hơn không xuất hiện trong ngoại Mật điển bởi hữu tình chúng sinh chưa tiến bộ về tâm linh đến vậy. Khi những hành giả của Kinh thừa chín muồi về tâm linh, trước tiên, họ có thể thực hành ngoại Mật điển, sau đó là nội Mật điển. Nếu các thực hành sơ khởi được hoàn thành thành công, những hành giả cũng có thể đạt được một cấp độ chín muồi, điều cho phép họ bỏ qua ngoại Mật điển và đi thẳng vào nội Mật điển. Các quán đỉnh thường được ban, chẳng hạn Kim Cương Tát Đỏa, A Di Đà Phật, Quán Thế Âm và Tỳ Lô Giá Na, thuộc về ngoại Mật điển; các quán đỉnh bao gồm bốn cấp độ khác nhau thì thuộc về nội Mật điển.
3.2.1. Cấp độ quán đỉnh đầu tiên là quán đỉnh bình.
Chức năng đầu tiên của quán đỉnh bình là cho phép đệ tử lắng nghe, nghiên cứu và thực hành các Mật điển và bình giảng liên quan đến giai đoạn phát triển. Chức năng thứ hai là chuyển hóa các kinh mạch của thân và thân vật lý của chúng ta thành thân Phật. Những vị chưa đạt chứng ngộ khi thọ nhận quán đỉnh có thể nương tựa sức mạnh được ban trong lễ quán đỉnh và sự hành trì giai đoạn phát triển để đạt được sự chuyển hóa một cách nhanh chóng. Chức năng thứ ba là tịnh hóa ác nghiệp gây ra bởi thân. Chức năng thứ tư là tạo ra nguyên nhân để thành tựu Hóa thân, một trong bốn thân của Phật và đem nó đến sự trưởng thành.
Chắc chắn, khi nói về các quá trình chuyển hóa, tịnh hóa và chín muồi, nó chỉ liên quan đến điều gì đó về bề ngoài. Thực sự, không điều gì trong số này là cần thiết bởi bản chất của mọi hiện tượng vốn thanh tịnh. Tuy vậy, hình tướng sau tất thảy đều là bất tịnh và chưa chín muồi; vì thế, các quá trình cần phải diễn ra.
3.2.2. Cấp độ quán đỉnh thứ hai là quán đỉnh bí mật. Thực sự, không có gì bí mật về nó; nó chỉ được gán cho là như vậy.
Chức năng đầu tiên của quán đỉnh bí mật là cho phép đệ tử lắng nghe, nghiên cứu và thực hành các Mật điển và bộ luận liên quan đến giai đoạn hoàn thiện ban đầu (cũng bao gồm giai đoạn phát triển phía trên). Chức năng thứ hai là cho phép những người chưa đạt chứng ngộ khi thọ nhận quán đỉnh nương tựa sức mạnh được trao truyền trong lễ quán đỉnh và sự hành trì giai đoạn phát triển và hoàn thiện chín muồi khẩu của họ một cách nhanh chóng và chuyển hóa nó thành khẩu của Phật. Nó cũng để tiêu trừ bất kỳ chướng cản nào với năng lượng khí (Mật thừa cho rằng các khí, kinh mạch và tinh túy, thứ tạo thành cơ thể, là bất tịnh ở cấp độ giả tạo và có thể được chuyển hóa thành thanh tịnh nhờ những thực hành giai đoạn phát triển và hoàn thiện). Chức năng thứ ba là tịnh hóa ác nghiệp gây ra bởi khẩu. Chức năng thứ tư là tạo ra nguyên nhân thành tựu Báo thân và nhanh chóng đưa nó đến kết quả.
3.2.3. Cấp độ quán đỉnh thứ ba là quán đỉnh kiến thức-trí tuệ. Điều này không phải là chỉ trong quán đỉnh này mới có trí tuệ; hai quán đỉnh đầu tiên cũng bao gồm các yếu tố của trí tuệ, nhưng cấp độ này chứa đựng trí tuệ cao nhất, trí tuệ của Đại Viên Mãn Dzogchen.
Chức năng đầu tiên của quán đỉnh kiến thức-trí tuệ là cho phép đệ tử lắng nghe, nghiên cứu và thực hành các Mật điển và bộ luận liên quan đến giai đoạn hoàn thiện cuối cùng. Giai đoạn hoàn thiện được chia thành hai phần: giai đoạn ban đầu có thể được thực hành sau khi quán đỉnh thứ hai được ban; giai đoạn hoàn thiện cấp độ cao, chẳng hạn như Thời Luân Kalachakra, chỉ có thể được thực hành sau khi quán đỉnh thứ ba được ban. Chức năng thứ hai là chuyển hóa tinh túy (tikle) của thân và tâm chúng ta thành trí tuệ Phật. Những vị chưa đạt chứng ngộ khi thọ nhận quán đỉnh nương tựa sức mạnh được trao truyền trong lễ quán đỉnh và sự hành trì giai đoạn phát triển và hoàn thiện để chín muồi tâm một cách nhanh chóng và chuyển hóa nó thành trí tuệ của Phật. Chức năng thứ ba là tịnh hóa ác nghiệp gây ra bởi ý. Chức năng thứ tư là tạo ra nguyên nhân để đạt được Pháp thân và đem nó đến sự chín muồi.
3.2.4. Cấp độ quán đỉnh thứ tư và cao nhất là quán đỉnh ngữ quý báu, điều cũng là quán đỉnh Dzogchen. Quán đỉnh này chứa đựng không chỉ cấp độ rốt ráo trong các nội Mật điển, trạng thái Dzogchen, mà còn cả toàn bộ giáo lý trong Mật thừa.
Chức năng đầu tiên của quán đỉnh ngữ quý báu là cho phép đệ tử lắng nghe, nghiên cứu và thực hành các Mật điển và bộ luận liên quan đến giai đoạn ban đầu của Dzogchen, chẳng hạn Mật điển Guhyagarbha, nhưng không phải tất cả thực hành trong Dzogchen. Trong truyền thống Nyingma, điều quan trọng là thọ nhận quán đỉnh riêng của Dzogchen để tiến hành thực hành. Chức năng thứ hai là tạo ra nguyên nhân để nhanh chóng đạt được Tự Tính thân. Pháp thân và Tự Tính thân là hai khía cạnh của công đức phi phàm của Phật; khía cạnh tịnh quang là Pháp thân trong khi khía cạnh tính Không là Tự Tính thân. Chức năng thứ ba là tiêu trừ toàn bộ các chướng cản với khí, kinh mạch và tinh túy của thân vi tế, bao gồm các phiền não chướng và sở tri chướng ở cấp độ vi tế nhất. Chức năng thứ tư là tịnh hóa ác nghiệp trong A-lại-da thức được gây ra bởi cả thân, khẩu và ý của chúng ta.
Bốn quán đỉnh có những chức năng tương ứng; trong quá khứ, các hành giả Mật thừa ở Tây Tạng thường cẩn thận xem xét hoàn cảnh của họ trước khi thọ nhận quán đỉnh. Họ thường tìm kiếm quán đỉnh phù hợp với căn cơ của bản thân. Ngày nay, thực hành Mật thừa rất phổ biến ở Tây Tạng; vì thế, bốn quán đỉnh thường được ban cùng lúc bất cứ khi nào lễ quán đỉnh được cử hành, bất chấp tính thích hợp hay sẵn sàng của căn cơ mỗi cá nhân. Điều này cần phải được xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng.
Ngoài những quán đỉnh này, cũng có một quán đỉnh đạo sư kim cương. Điều này được trao cho một đệ tử, người mà sau khi thọ nhận bốn quán đỉnh, có khả năng đảm nhận trách nhiệm của một đạo sư kim cương. Chỉ sau khi thọ nhận quán đỉnh này thì người đó mới có thể ban quán đỉnh cho người khác và trao truyền những giáo lý Mật thừa. Trong quá khứ, quán đỉnh này thường không được tiến hành một cách công khai. Tuy nhiên, một người đã thọ nhận quán đỉnh đạo sư kim cương này vẫn phải xem xét liệu bản thân anh ta có đủ phẩm tính để ban quán đỉnh và hoằng dương giáo lý. Điều này vô cùng quan trọng.
4. CÁCH THỌ NHẬN QUÁN ĐỈNH
4.1. Chuẩn Bị Cho Quán Đỉnh
Để chuẩn bị cho quán đỉnh, người ta cần:
- Hiểu điều liên quan đến việc thọ nhận một quán đỉnh.
- Thực hành các Pháp tu sơ khởi. Điều này bao gồm bốn thực hành sơ khởi bên ngoài (thân người quý báu, vô thường, v.v.) và các thực hành sơ khởi bên trong (Quy y, Phát Bồ đề tâm, v.v.). Quán đỉnh là cần thiết để thực hành Kim Cương Tát Đỏa và Đạo Sư Du Già; mặc dù không nhất thiết, tốt nhất là quán đỉnh cũng được ban cho thực hành Cúng Dường Mandala.
4.2. Nhập Đàn Tràng (Mandala)
Một quán đỉnh được ban bằng Tạng ngữ cần phải được chuyển dịch; nếu không, các hành giả sẽ không biết cách thọ một quán đỉnh đúng đắn, trừ khi vị đạo sư thành tựu cao và có thể nhờ sức mạnh không thể nghĩ bàn đảm bảo rằng quán đỉnh được thọ nhận. Bên cạnh đó, có những bước cần tuân theo:
- Tại địa điểm nghi lễ trước lễ quán đỉnh, mọi người cần cùng nhau trì tụng Chân ngôn Trăm Âm để tịnh hóa ác nghiệp.
- Hãy cúng dường một Mandala nếu có; nếu không, hãy quán tưởng cúng dường Mandala và các vật phẩm khác, như hoa, nước và hương. Ở Tây Tạng, có một phong tục là cúng dường khăn Khata cùng với các vật phẩm khác. Hãy quán tưởng chúng bao trùm tất cả những vật phẩm cúng dường diệu kỳ trong một tỷ hệ thống thế giới và tất cả gốc rễ thiện lành của chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai và quán tưởng cúng dường chúng lên vị đạo sư kim cương ban quán đỉnh.
- Trong quá trình quán đỉnh, các giới luật quy y, Bồ Tát giới và Mật giới được giải thích; trước đạo sư kim cương, hãy thề giữ gìn giới quy y.
- Sau đó, hãy thọ giới Bồ Tát.
- Kế đấy, hãy thọ Mật giới tương ứng với quán đỉnh. Lúc này, những vị tham dự được trao nước để uống, thứ đại diện cho lời thề giữ gìn Mật giới.
- Hãy thỉnh cầu đạo sư kim cương trao quán đỉnh. Quy trình này được giải thích trong nghi thức và phải được mọi người hoàn tất. Trong Kinh thừa cũng có truyền thống chỉ ban trao truyền cho người chấp nhận những giáo lý, chứ không phải cho ai đó không [chấp nhận]. Bước này ám chỉ rằng người tham dự có niềm tin với thực hành và sẵn lòng chấp nhận.
- Hãy thỉnh cầu sự cho phép từ đạo sư kim cương để nhập đàn tràng (Mandala). Người ta phải hoàn thành những thủ tục này, điều là cần thiết với mọi quán đỉnh, thậm chí nếu không có phần dịch thuật.
- Để biết Bổn tôn Yidam, mỗi người được trao một bông hoa trong lễ quán đỉnh; trước tiên, người ta cầu nguyện trước một khay hoa, thứ đại diện cho Mandala, sau đó, tung bông hoa vào chiếc khay. Bất cứ Bổn tôn nào mà bông hoa rơi vào thì chính là Bổn tôn của người đó.
- Sau khi Bổn tôn được nhận ra, hãy quán tưởng việc cung nghênh Bổn tôn giáng hạ từ cõi Phật vào tim của bạn. Với khay hoa đặt trên đầu, hãy quán tưởng Bổn tôn tan vào tim và trở thành một với bạn.
- Trong lễ quán đỉnh, mắt của mỗi người bị che bằng mảnh vải đỏ; sau một lúc, mảnh vải được cởi ra để cho phép những người tham dự thấy Mandala. Ngụ ý ở đây là trước khi nghiên cứu Mật thừa, chúng ta nhìn nhận mọi hình tướng là bất tịnh; nó giống như nhìn vào thế giới qua mắt kính màu và không thấy được sự thực chân chính, vì thế, một mảnh vải được dùng để che mắt. Khi mảnh vải được cởi ra, đạo sư kim cương giới thiệu Mandala cho những vị thọ nhận quán đỉnh. Mục đích chính yếu là giới thiệu năm gia đình Phật trong Mandala, điều đại diện cho sự hiển bày của năm trí. Điều này là để khắc sâu sự hiểu rằng toàn bộ thế giới cũng thanh tịnh giống như Mandala của chư Phật. Mặc dù về bề ngoài, Mandala có thể xuất hiện là một hình dạng làm từ cát màu, một bức Thangka được vẽ tay hay một bức hình, tất cả những hình tướng này đại diện cho Mandala của năm gia đình Phật. Cõi Phật thanh tịnh là diện mạo nguyên sơ của thế giới này.
- Để giới thiệu Mandala, đạo sư kim cương sẽ dùng một chày kim cương để chỉ vào các cung điện và Bổn tôn trong Mandala, và lần lượt ban một sự giải thích.
4.3. Các Phương Pháp Quán Tưởng
Các phương pháp quán tưởng về cơ bản không được giải thích cho những người chưa thọ nhận quán đỉnh. Tuy nhiên, nếu chúng trước tiên không được giải thích, người ta sẽ không biết các phương pháp; không biết những phương pháp, họ không thể thọ nhận quán đỉnh và cũng sẽ chẳng thể thọ nhận nó. Dĩ nhiên, giảng dạy các phương pháp cho một người có niềm tin với Mật thừa cũng không phải là một vấn đề, đặc biệt khi mà không có điều gì trong các phương pháp này phải được giữ bí mật.
a) Quán Đỉnh Bình
Hầu hết các quán đỉnh bình có thể được phân thành bảy loại:
- Quán đỉnh nước của A Súc Bệ Phật – quán đỉnh này thường được ban bằng một bình chứa cam lồ. Người thọ nhận quán đỉnh cần quán tưởng bình này là cung điện của năm gia đình Phật, tức là Mandala của tất cả chư Phật trong những nội Mật điển – hình dáng giống như Mandala tại Phật Học Viện Ngũ Minh Larung. Sau đó, hãy quán tưởng năm gia đình Phật bên trong bình; chư Tôn, giống như băng, sau đó, tan ra và trở thành nước trong bình. Trong lễ quán đỉnh, một người thọ nhận nhìn chung cần uống nước trong bình; lúc này, người thọ nhận cần quán tưởng rằng năm gia đình Phật tan thành nước và người đó được tắm rửa bằng nước này. Thức uẩn của một người bình phàm, vị mà bản tính thực sự là năm gia đình Phật, như thế được tịnh hóa và hóa hiện thành A Súc Bệ Phật; hư không trong năm yếu tố [đại] được tịnh hóa và hóa hiện thành Phật Mẫu Vajra Datvishvari; sân hận trong năm độc được tịnh hóa và hóa hiện thành trí tuệ như gương [Đại Viên Cảnh Trí].
- Quán đỉnh vương miện của Bảo Sinh Phật – hãy quán tưởng vương miện là Bảo Sinh Phật. Khi đạo sư kim cương đặt vương miện lên đầu đệ tử, đệ tử cần quán tưởng như sau: thọ uẩn được tịnh hóa và hóa hiện thành Bảo Sinh Phật; nước [thủy đại] được tịnh hóa và hóa hiện thành Phật Mẫu Mamaki; kiêu ngạo được tịnh hóa và hóa hiện thành trí tuệ bình đẳng [Bình Đẳng Tính Trí].
- Quán đỉnh chày kim cương của Vô Lượng Quang Phật – khi đạo sư kim cương đặt chày kim cương vào tay phải của đệ tử, đệ tử cần quán tưởng như sau: tưởng uẩn được tịnh hóa và hóa hiện thành Vô Lượng Quang Phật; lửa [hỏa đại] được tịnh hóa và hóa hiện thành Phật Mẫu Pandaravasini; tham lam được tịnh hóa và hóa hiện thành trí tuệ của sự phân biệt [Diệu Quan Sát Trí].
- Quán đỉnh chuông của Bất Không Thành Tựu Phật – khi đạo sư kim cương đặt chuông vào tay trái của đệ tử, đệ tử cần quán tưởng như sau: hành uẩn được tịnh hóa và hóa hiện thành Bất Không Thành Tựu Phật; gió [phong đại] được tịnh hóa và hóa hiện thành Phật Mẫu Samayatara; đố kỵ được tịnh hóa và hóa hiện thành trí tuệ thành tựu tất cả [Thành Sở Tác Trí].
- Quán đỉnh danh hiệu của Tỳ Lô Giá Na Phật – khi đạo sư kim cương ban một danh hiệu tương ứng với vị Bổn tôn Yidam, đệ tử cần quán tưởng như sau: sắc uẩn được tịnh hóa và hóa hiện thành Tỳ Lô Giá Na Phật; đất [địa đại] được tịnh hóa và hóa hiện thành Phật Mẫu Lochana; vô minh được tịnh hóa và hóa hiện thành trí tuệ của Pháp giới [Pháp Giới Thể Tính Trí].
- Quán đỉnh thực hành kim cương – đạo sư kim cương đặt chày kim cương và chuông, những biểu tượng của sự hợp nhất của trí tuệ và phương tiện thiện xảo, vào tay đệ tử và thúc giục đệ tử tiến hành thực hành Mật thừa, điều giúp chứng ngộ sự bất khả phân của Pháp giới và trí tuệ.
Sáu quán đỉnh trên được ban cho đệ tử.
- Quán đỉnh đạo sư kim cương – quán đỉnh này được trao cho một nhóm người đặc biệt, những vị sở hữu khả năng giải thoát hữu tình chúng sinh khỏi luân hồi.
Sau khi thọ nhận những quán đỉnh này, chúng ta có thể nhanh chóng hiện thực hóa năm gia đình Phật; tức là, năm gia đình Phật và năm uẩn của chúng ta trở thành một và giống nhau. Dù đó là ác nghiệp của thân hay sự tắc nghẽn của các kinh mạch, tất cả được tịnh hóa và đem đến sự trưởng thành. Cùng lúc, hạt giống của Hóa thân được thành tựu.
Mặc dù có vài khác biệt trong các quán đỉnh, hầu hết các quán đỉnh bình đều tuân theo kiểu quán tưởng này. Trong tương lai, khi thọ nhận một quán đỉnh, thậm chí nếu không được chuyển dịch, bạn có thể quán tưởng như vậy; nếu không, sẽ rất khó khăn để thọ nhận một quán đỉnh nếu bạn chỉ đơn thuần uống nước từ bình và chẳng hiểu gì.
b) Quán Đỉnh Bí Mật
Quán đỉnh bí mật thường được ban bằng một chiếc Kapala chứa cam lồ. Khi thọ nhận quán đỉnh, hãy quán tưởng cam lồ đầu tiên tràn ngập luân xa cổ họng, sau đó, lan xuống tim, kế đó là rốn, cuối cùng đến mọi luân xa và phần trên thân thể và quán tưởng chứng ngộ bản tính của tâm. Mặc dù về bề ngoài, Kapala chỉ chứa nước pha với thảo dược, nó biểu tượng cho sự chứng ngộ cấp độ quán đỉnh thứ hai. Vì thế, lúc uống cam lồ, hãy quán tưởng bạn đã chứng ngộ tính Không nhờ sức mạnh của quán đỉnh, tiêu trừ những che chướng của khẩu và gieo trồng hạt giống của Báo thân. Quán đỉnh thứ hai có thể được thọ nhận khi bạn uống và quán tưởng cùng lúc; sau đấy, bạn đủ phẩm tính để lắng nghe và thực hành nửa đầu tiên của giai đoạn hoàn thiện.
Nếu bạn đạt chứng ngộ ngay tại buổi lễ, đó là dấu hiệu của một quán đỉnh hoàn hảo; nếu bạn chẳng cảm thấy gì đặc biệt trong buổi lễ nhưng hoàn tất sự quán tưởng đúng theo chuẩn mực, ít nhất bạn đã gieo hạt giống để đạt giác ngộ nhanh chóng.
c) Quán Đỉnh Kiến Thức-Trí Tuệ
Quán đỉnh kiến thức-trí tuệ thường được ban bằng hình ảnh của một Không Hành Nữ [Dakini]. Trong bức hình Yab-Yum, vị Bổn tôn nam biểu tượng cho khía cạnh tịnh quang của Như Lai Tạng trong khi vị Bổn tôn nữ hay Dakini biểu tượng cho khía cạnh tính Không của Như Lai Tạng. Trong lễ quán đỉnh, hãy chạm ngón tay bạn vào bức hình Dakini và quán tưởng rằng nhờ kết nối này, bạn nhanh chóng thành tựu trí tuệ chứng ngộ tính Không. Quán đỉnh kiến thức-trí tuệ có thể được thọ nhận theo cách này.
Nửa thứ hai của giai đoạn hoàn thiện, được gọi là giai đoạn hoàn thiện không có các dấu hiệu, là thực hành hoàn thiện nhất. Nhờ quán đỉnh cấp độ thứ ba, được tiến hành với một bức hình Dakini và thực hành tính Không, chúng ta có thể hiện thực hóa sự hợp nhất của hỷ lạc và tính Không của giai đoạn hoàn thiện không dấu hiệu, tiêu trừ những che chướng của ý và gieo trồng hạt giống của Pháp thân.
d) Quán Đỉnh Ngữ Quý Báu
Quán đỉnh ngữ quý báu, cấp độ quán đỉnh cao nhất, thường được ban với một viên pha lê tự nhiên. Pha lê trong trạng thái tự nhiên của nó về cơ bản là trong suốt; nó không có những che chướng và biểu tượng cho Như Lai Tạng bên trong. Khi ánh sáng chiếu lên nó, pha lê hiển bày ánh sáng rực rỡ như cầu vồng; tuy nhiên, khi không có ánh sáng bên ngoài, màu sắc cầu vồng không hiển bày dẫu cho pha lê có khả năng ẩn giấu này. Tương tự, khi chúng ta vẫn còn những phiền não và chìm trong vô minh, chẳng có cách nào để trải nghiệm trí tuệ Phật hay tâm sáng tỏ; khi chúng ta đã xua tan những phiền não của bản thân và chứng ngộ tính Không, tâm sáng tỏ hiển bày. Điều này được giải thích rõ ràng trong các bản văn liên quan đến lần chuyển Pháp luân thứ ba, chẳng hạn như Kinh Giải Thâm Mật, Kinh Lăng Già, cũng như Xưng Tán Pháp Giới của Tổ Long Thọ và Đại Thừa Vô Thượng Tục Luận [Uttaratantra Shastra] của Ngài Di Lặc.
Nếu chúng ta hiểu được Như Lai Tạng là gì và có chút chứng ngộ nào đó, chúng ta có thể an trú trong trạng thái chứng ngộ khi quán đỉnh được ban, dẫu cho thực sự chẳng có gì để thọ nhận bởi tâm vốn đã bao trùm mọi trí tuệ. Khi không có sự chứng ngộ, đặt pha lê vào tay chúng ta và lên đầu chúng ta đơn thuần biểu tượng cho một kết nối với thực hành. Trong lễ quán đỉnh, hãy quán tưởng chúng ta tiêu trừ những che chướng của thân, khẩu và ý ở mức độ vi tế nhất nhờ sức mạnh của quán đỉnh và gieo trồng hạt giống của Tự Tính Thân. Quán đỉnh ngữ quý báu chắc chắn có thể được thọ nhận theo cách này.
Một vài quán đỉnh được theo sau bởi những quán đỉnh bổ sung, điều sử dụng năm gia đình Phật, năm vương miện Phật, chuông, chày kim cương, v.v. Chúng tạo thành những quán đỉnh mở rộng hơn nhưng không phải là quan trọng nhất. Quan trọng nhất là bốn quán đỉnh.
Đã có kiến thức như vậy, mọi người sau đó có thể hiểu được cấp độ quán đỉnh mà họ đang thọ nhận trong lễ quán đỉnh. Trong quá trình quán đỉnh, điều quan trọng là cẩn thận lắng nghe giáo lý và tuân thủ sự quán tưởng tương ứng. Điều này vô cùng quan trọng; nếu không, quán đỉnh không thể nào được thọ nhận.
4.4. Những Bước Cuối Cùng Trong Quán Đỉnh
Cuối lễ quán đỉnh, có ba bước khác nữa: một là cúng dường Mandala; hai là thề giữ gìn các thệ nguyện Mật thừa và ba là tuân theo những giáo lý và thực hành với sự tinh tấn.
a) Chúng ta tiến hành cúng dường Mandala để làm hài lòng đạo sư kim cương. Hình thức cao nhất của cúng dường Mandala mà người ta có thể dâng lên đạo sư là đưa những giáo lý của Ngài vào thực hành; đây cũng được gọi là cúng dường Giáo Pháp. Chúng ta không nên nghĩ rằng, thiếu sự hành trì, cúng dường Mandala có thể hoàn thành chỉ bằng việc cúng dường đạo sư tiền bạc hay những món vật chất. Nếu những giáo lý được thọ nhận mà không được thực hành, chư Phật và Bồ Tát không thể nào hài lòng, dẫu cho những cúng phẩm có đắt đỏ đến đâu. Nếu vị đạo sư ban quán đỉnh vô cùng thích thú với những món vật chất mà chúng ta dâng lên, chứ không phải việc đệ tử đang tiến hành thực hành tốt đến đâu, vị ấy rõ ràng không phải là người thích hợp với vai trò đạo sư kim cương.
Yêu cầu này là như nhau trong Kinh thừa và Mật thừa. Ví dụ, lúc thọ nhận Bồ Tát giới, hoa và hương cũng được cúng dường để tích lũy ân phước gia trì cần thiết để thọ giới. Tương tự, bởi quán đỉnh là một sự kiện thiêng liêng, cúng dường Mandala được cử hành trước đó để tạo ra ân phước gia trì lớn lao nhằm thọ nhận quán đỉnh; sau lễ quán đỉnh, cũng cần phải báo đáp lòng từ của đạo sư. Cách tốt nhất để làm vậy là thực hành nghiêm túc, sau đó hoằng dương Giáo Pháp và giúp đỡ chúng sinh.
b) Đồng thời, một người đã thọ nhận cả bốn quán đỉnh phải giữ gìn mười bốn thệ nguyện gốc và một số thệ nguyện nhánh; nếu các giới gốc bị gẫy, sự vi phạm là rất nghiêm trọng.
Như thế, ngay sau lễ quán đỉnh, người ta cần nghiên cứu và tuân theo những Mật giới. Nếu các Mật giới bị bẻ gẫy ở các mức độ khác nhau vì bất kỳ lý do nào, người đó cũng cần sám hối.
Mật điển nói rằng khi bốn sức mạnh đối trị hội tụ, cách thức để ăn năn là trì tụng Chân ngôn Trăm Âm 100.000 biến hay Chân ngôn Kim Cương Tát Đỏa Om Benza Sattva Hum 400.000 biến; ác nghiệp có thể tịnh hóa hoàn toàn theo cách này[6].
Với những hành giả Mật thừa, các mong đợi thì cao, các nguy cơ cũng lớn; kết quả có thể là địa ngục kim cương nếu mọi chuyện đi sai hướng. Nhưng nếu người đó tuân thủ chặt chẽ các quy tắc và thực hành một cách tinh tấn, anh hay cô ấy cũng có thể đạt Phật quả trong đời này. Nói một cách tương đối, những mong đợi trong Kinh thừa thì không cao đến vậy, nhưng con đường đến Phật quả thì rất chậm.
Đồng thời, Mật thừa cũng có nhiều lợi thế. Như một ví dụ, có nhiều giới luật trong Phật giáo Tiểu thừa; những sự miễn trừ đặc biệt không bao giờ được thực hiện; khi bị phá vỡ, nó luôn luôn là một vi phạm. Trong Phật giáo Đại thừa, tình thế cởi mở hơn nhiều. Đại thừa cho rằng chừng nào hành động ấy làm lợi lạc chúng sinh khác và không ích kỷ thì sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu có thể được cho phép trong những trường hợp riêng biệt. Trong trường hợp của Phật giáo Kim Cương thừa, quán đỉnh đầu tiên của chúng ta phải được ban bởi một đạo sư kim cương. Sau đấy, nếu các thệ nguyện bị phá vỡ, chúng ta có thể lập tức tiến hành thực hành Kim Cương Tát Đỏa với việc trì tụng Chân ngôn Bổn tôn 400.000 biến và ăn năn sám hối. Sau sự ăn năn này, chúng ta có thể tự mình quán tưởng thọ nhận quán đỉnh theo thực hành Đạo Sư Du Già được trình bày trong Lời Vàng Của Thầy Tôi. Nếu sự quán tưởng là rõ ràng, kết quả sẽ hoàn toàn giống với việc thọ nhận quán đỉnh trực tiếp từ đạo sư kim cương. Nhờ phương pháp này, Mật giới có thể được phục hồi. Trong khi đó, trong Phật giáo Tiểu thừa, các giới luật không bao giờ có thể được phục hồi; trong hệ thống Kinh thừa, một người có thể tự thọ Bồ Tát chỉ khi một đạo sư Đại thừa đủ phẩm tính không thể được tìm thấy để truyền giới.
Như thế, chúng ta không cần phải lo sợ khi thọ quán đỉnh vì sợ sẽ đọa địa ngục kim cương; lo âu và e sợ quá mức sẽ chỉ tạo thành chướng ngại với thực hành.
Mật thừa tuyên bố rõ ràng rằng: nếu các Mật giới có thể được duy trì, một người có thể đạt Phật quả trong vòng bảy đời. Làm sao chúng ta không thể giữ giới chỉ bởi vì chúng đòi hỏi cao, giống như không ăn vì sợ bị hóc hay không gặp bác sĩ để giấu bệnh?
c) Sau lễ quán đỉnh, đệ tử phải thề trước đạo sư như sau: Từ nay trở đi, con sẽ lắng nghe và tuân theo những giáo lý của đạo sư kim cương.
Điều này nghĩa là từ nay trở về sau, chúng ta cần tuân theo những chỉ dẫn của đạo sư để trưởng dưỡng sự xả ly và Bồ đề tâm, thực hành các giai đoạn phát triển và hoàn thiện, nghiên cứu và thực hành một cách chân thành và giữ gìn Mật giới.
Với sự hồi hướng lúc kết thúc, toàn bộ quá trình quán đỉnh đã đi đến hồi kết.
Trên đây là một sự giới thiệu đơn giản về bốn cấp độ quán đỉnh trong Mật thừa. Sau khi đã hiểu các nguyên tắc này, dù cho các quán đỉnh trước kia chúng ta đã thọ nhận có tuân thủ quy tắc hay không, chúng ta cần đảm bảo rằng bất kỳ quán đỉnh nào chúng ta thọ nhận trong tương lai sẽ đúng theo tiêu chuẩn.
5. CÁC YÊU CẦU SAU QUÁN ĐỈNH
Sau khi bước vào Mật thừa, chúng ta cần hiểu và thực hành giai đoạn phát triển và giai đoạn hoàn thiện. Các trước tác về lĩnh vực này của Mật thừa thì rất đáng kể. Trong số chúng có bản văn Nyingma – Mật điển Guhyagarbha, điều mà chúng ta phải nghiên cứu; giống như Căn Bản Kệ Về Trung Đạo trong Trung Quán Madhyamaka và Bình Giảng Về Lượng Học trong Lô-gic, đây là Mật điển căn bản trong trường phái Nyingma. Có nhiều luận giải về Mật điển Guhyagarbha, trong số đó có Tinh Túy Tịnh Quang của Mipham Rinpoche[7], điều mà Khenpo Sodargye đã chuyển dịch [sang tiếng Trung]. Tất cả đệ tử của Mật thừa cần nghiên cứu và hiểu toàn bộ quá trình Mật thừa từ đầu đến cuối, cũng như tri kiến, hành động, giới luật, v.v. trong Mật thừa. Sau đấy, người đó có thể lắng nghe và quán chiếu giáo lý rồi tiến hành thực hành thực sự.
Phật giáo Tây Tạng có các thực hành trọn vẹn và rất chi tiết dành cho những người với căn cơ khác nhau; mặc dù rất nhiều [trong số chúng] vẫn chưa được chuyển dịch, chúng vẫn có thể được khẩu truyền. Trong truyền thống của chư đạo sư trong quá khứ, những hành giả Dzogchen không được phép đọc các bản văn trước khi thực hành. Nếu sự nhấn mạnh chỉ về việc đọc nghi lễ, chứ không phải về thực hành thực sự thì hành giả chỉ đơn thuần có được kiến thức mang tính quan niệm và sự quen thuộc với thuật ngữ trong Dzogchen; điều này có thể thực sự khiến anh hay cô ấy khó trải nghiệm điều thực sự trong lúc thực hành. Như vậy, Dzogchen giống Thiền Tông – đều không tán thành việc sử dụng những từ ngữ. Mặc dù trạng thái Dzogchen không thể được miêu tả bằng từ ngữ, chư đạo sư cũng công nhận khả năng xuất hiện những tri kiến khác nhau trong tương lai, điều sẽ gây rắc rối nếu không có tiêu chuẩn hay tham chiếu để tuân theo; vì thế, cuối cùng thì chư vị để lại nhiều bản văn về Dzogchen. Trong số những bản văn đã được dịch sang tiếng Trung có Văn Thù Đại Viên Mãn – Trí Tuệ Giác Ngộ Trong Tay của trưởng lão Khenpo Jigme Phuntsok[8], Tinh Túy Đạo Sư (từ Tâm Yếu Bốn Phần) của Tôn giả Longchenpa và v.v. Về những chỉ dẫn cốt tủy của thực hành Dzogchen, Tinh Túy Đạo Sư đứng đầu trong danh sách.
Thực hành Bổn tôn của giai đoạn phát triển có thể đem lại cho chúng ta lợi lạc lớn lao bằng cách xua tan những chướng ngại trên con đường và đẩy nhanh quá trình hướng về thành tựu cuối cùng của chúng ta.
Thực hành giai đoạn hoàn thiện được chia thành hai kiểu: giai đoạn hoàn thiện không có dấu hiệu và giai đoạn hoàn thiện có dấu hiệu.
Trong giai đoạn hoàn thiện có dấu hiệu, hành giả làm việc với các khí, kinh mạch và tinh túy của thân; thực hành tương đối phức tạp nhưng tạo ra các kết quả rất nhanh chóng. Cùng lúc, bởi nó phức tạp, chúng ta cần có một đạo sư đủ phẩm tính dẫn dắt, nếu không, mọi chuyện có thể dễ dàng trở nên sai lầm; mọi người nói chung không cần tiến hành thực hành này vì lý do như vậy. Trong Phật giáo Tây Tạng, thực hành liên quan đến các khí, kinh mạch và tinh túy của thân vi tế khá phổ biến, đặc biệt trong trường phái Jonang, thứ nhấn mạnh tầm quan trọng lớn lao vào thực hành Thời Luân Kalachakra.
Trong giai đoạn hoàn thiện không có dấu hiệu, thực hành liên quan đến các khí và kinh mạch của thân vi tế hay thực hành giai đoạn phát triển đều chẳng cần thiết; thực hành linh thiêng nhất trong giai đoạn này là Dzogchen, được theo sau bởi Mahamudra Đại Thủ Ấn. Người ta có thể thực hành Dzogchen ngay sau khi hoàn thành các thực hành sơ khởi bên ngoài và bên trong. Đây là con đường an toàn mà nhanh chóng, thứ đòi hỏi người học trò có niềm tin với đạo sư và Dzogchen; không có niềm tin thích hợp, chẳng thể đạt được điều gì.
Có những yêu cầu nghiêm ngặt cần tuân thủ liên quan đến giáo lý Dzogchen, tức là không quá bảy người có thể tham dự một lần. Tuy nhiên, ngày nay, những Pháp hội được mở rộng cho đại chúng; những vị được-gọi-là ‘hành giả Dzogchen’ có mặt ở khắp nơi trong thị trấn. Tuy nhiên, Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche thường nói rằng nếu thính chúng không đủ phẩm tính, thậm chí bảy người cũng là quá nhiều; nếu thính chúng đủ phẩm tính, một đến hai trăm người cũng chẳng phải vấn đề.
Kinh thừa và Mật thừa chỉ khác nhau về phương pháp và kỹ thuật; kết quả cuối cùng là giống nhau. Cuối cùng, mọi phương pháp đều không còn cần thiết. Giống như rửa tay và đi tắm, xà phòng và sữa tắm phải được rửa sạch; bất kỳ phương pháp nào được sử dụng trong Kinh thừa hay Mật thừa một cách rốt ráo đều phải bị từ bỏ.
Mật thừa thì phong phú về phương pháp. Có những thực hành cho người sống và các thực hành trong Bardo cho người chết; có những thực hành trong trạng thái thức, sau khi ngủ, thậm chí trong trạng thái mộng; chúng ta đều có thể tìm ra một con đường thích hợp. Với một nền tảng vững chắc, chúng ta có thể đạt chứng ngộ nhanh chóng nhờ các thực hành Mật thừa. Vì vậy, Mật thừa cũng được gọi là thừa của phương tiện thiện xảo. Nếu chúng ta duy trì vô hạn định trong giai đoạn thực hành sơ khởi bên ngoài và bên trong, chúng ta đang đóng lại cánh cửa đến các thực hành khác và ngăn sự tiến bộ trên con đường. Đó sẽ là vấn đề lớn nhất của chúng ta.
Không có kinh nghiệm trước đó trong các quán đỉnh hoặc có thành kiến với Mật thừa, một người trước tiên có thể đọc về hệ thống tư tưởng Mật thừa; điều này phù hợp hơn với tiêu chuẩn của việc thọ nhận một quán đỉnh sau khi có được chút kiến thức. Ngày nay, nhiều người không hiểu Mật thừa và có những định kiến về các thực hành; điều này khá bình thường. Thậm chí những đạo sư vĩ đại – Hung Yi và Xu Yun cũng từng có những nghi ngờ; khi đã hiểu sâu sắc hơn, chư vị thừa nhận Mật thừa không chỉ là Giáo Pháp chân chính mà còn là một con đường nhanh chóng dẫn đến chứng ngộ. Không biết ý nghĩa biểu tượng ẩn đằng sau một vài Pháp khí nghi lễ và hình ảnh chư Tôn Mật thừa, thật dễ dàng đưa ra kết luận sai lầm. Các tri kiến và phương pháp khác biệt cần thời gian để thấu triệt hay thâm nhập. Khi lần đầu tiên được giới thiệu đến Trung Hoa, Phật giáo cũng gặp phải các vấn đề tương tự; nhờ sự hiểu biết và hòa nhập lẫn nhau, các truyền thống khác biệt cuối cùng đạt đến một nền tảng chung.
Trong thời kỳ đầu khi Mật thừa đến Tây Tạng, một số đạo sư thường giấu những bức Thangka về Bổn tôn; các Pháp khí như chày kim cương, chuông và trống cũng được khóa trong hòm. Điều này được thực hiện vì hai lý do: một là để ngăn nhận thức sai lầm; hai là để giữ các thực hành bí mật. Một nhân tố quan trọng trong sự thành công của những đạo sư này là chư vị giữ các thực hành bí mật.
Một điểm khác cần giữ trong tâm là: thậm chí nếu dùng thịt và rượu không còn ảnh hưởng đến sự hành trì của bản thân như trong trường hợp của một số thành tựu giả trong quá khứ, chúng ta vẫn cần bảo vệ những gốc rễ thiện lành của hữu tình chúng sinh và đưa ra tấm gương đúng đắn, đặc biệt là trước một đám đông; tham gia vào hành động sai lầm, điều khiến người khác phát triển tà kiến và đọa vào các cõi thấp hơn, là rất vô trách nhiệm.
Trong Ngụ Ngôn Về Rắn Đen, người ta nói rằng mặc dù mọi bám chấp cuối cùng phải bị từ bỏ, cũng có một quá trình buông bỏ. Mật thừa sử dụng một cách tương đối các phương pháp mạnh mẽ để điều phục tâm phân biệt của chúng ta, thứ phân biệt thanh tịnh với bất tịnh. Sự khác biệt giữa Kinh thừa và Mật thừa giống như sự khác biệt giữa trị liệu truyền thống và phẫu thuật. Mặc dù những cách điều trị truyền thống cũng là một cách trị bệnh, chúng cần thời gian dài hơn. Phẫu thuật rất hữu hiệu, nhưng chỉ một người trong điều kiện thân thể đủ tốt mới có thể trải qua phẫu thuật. Tương tự, khi tâm chúng ta đóng lại và không sẵn sàng chấp nhận thứ gì khác biệt, tốt hơn là tạm bỏ qua những thực hành Mật thừa cao cấp, trước tiên, hãy nghiên cứu những Kinh điển hoặc các thực hành sơ khởi phổ thông trong Mật thừa, phát Bồ đề tâm và thực hành Trung Đạo; đây là con đường dẫn đến giải thoát tuy dài nhưng an toàn. Chọn con đường an toàn hơn sẽ đảm bảo mọi chuyện không trở nên sai lầm. Khi những khả năng tinh thần của chúng ta chín muồi và khả năng thích ứng với các hoàn cảnh khác thường của chúng ta đạt đến một mức độ nhất định, chỉ khi ấy chúng ta mới có thể chấp nhận các phương pháp của Kim Cương thừa, điều mà giống như lấy độc trị độc, rất mạnh mẽ trong việc điều phục tâm.
Nguồn Anh ngữ: http://www.luminouswisdom.org/index.php/publications/gateway-to-the-vajrayana-path/3892-how-to-receive-empowerment.
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.
[1] Về Khenpo Tsultrim Lodro Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a33272/tieu-su-van-tat-khenpo-tsultrim-lodro.
[2] Tham khảo https://thuvienhoasen.org/a32705/dao-su-kim-cuong-va-quan-dinh.
[3] Tham khảo bản dịch Việt ngữ tại https://thuvienhoasen.org/a6376/loi-vang-cua-thay-toi.
[4] Về thực hành giai đoạn phát triển, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a34222/giai-doan-phat-trien.
[5] Theo Rigpawiki, Atisha Dipamkara Shrijnana hay Jowo Je Palden Atisha (982-1054) là một đạo sư và học giả Ấn Độ vĩ đại và là tác giả của nhiều bản văn bao gồm Đèn Soi Nẻo Giác. Là một trong những vị thầy chính yếu tại đại học Vikramashila nổi tiếng, Ngài cũng là môn đồ tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc tu viện và nổi tiếng khắp nơi về sự thanh tịnh của giáo lý. Ngài dành mười năm cuối đời ở Tây Tạng, giảng dạy và chuyển dịch các bản văn và đóng vai trò quan trọng trong việc chấn hưng Phật giáo sau giai đoạn khủng bố. Các đệ tử của Ngài đã thành lập trường phái Kadampa.
[6] Tham khảo https://thuvienhoasen.org/a26007/bai-giang-ngan-ve-thuc-hanh-tinh-hoa.
[7] Về Mipham Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a32261/2/tieu-su-duc-mipham-jamyang-namgyal-gyatso-1846-1912-.
[8] Về Khenpo Jigme Phuntsok, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a27321/tieu-su-van-tat-duc-kyabje-jigme-phuntsok-rinpoche.