Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Ngắn Gọn Của Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima

13 Tháng Ba 202119:44(Xem: 1922)
Tiểu Sử Ngắn Gọn Của Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima
Tiểu Sử Ngắn Gọn Của Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima

Khenpo Petse Rinpoche[1]
Pema Jyana

Hoa Vô Ưu

 

Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche[3]. Ngài sinh trong chu kỳ lịch thứ mười lăm ở phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, trong vùng Dakpo. Từ thuở nhỏ, tiềm năng giác ngộ của Ngài được đánh thức và Ngài bước vào con đường Giáo Pháp. Cuối cùng, Ngài gia nhập một đoàn thương nhân và người hành hương đang quay về miền Đông Tây Tạng và đi cùng với họ đến Kham để cầu học giáo lý.

Bởi còn trẻ và đường sá xa xôi, Ngài đã phải đối diện với vô vàn khó khăn, giống như những gì Jetsun Milarepa đã gặp phải, bởi Ngài thiếu các nhu yếu phẩm cần thiết để thực hành, chỉ có ít quần áo tồi tàn để mặc và v.v. Cuối cùng, Ngài đến được Tu viện Dzogchen[4] ở Dokham và tại đó, thọ nhận giáo lý từ chư Lama, Tulku, Khenpo và Acharya thường trú về các môn học khác nhau từ Kinh điểnMật điển, nhưng chủ yếu về mười ba bản văn kinh điển vĩ đại. Nhờ sự rèn luyện này, Ngài gia nhập hàng ngũ của những vị uyên bác.

Ngài cũng thọ nhận nhiều quán đỉnhkhẩu truyền từ vị tái sinh Dzogchen [thứ năm] Thubten Chokyi Dorje. Dzogchen Rinpoche đối xử với Ngài bằng tình thương lớn và ban cho Ngài danh hiệu Tulku, trao cho Ngài ngai tòa và bổ nhiệm hai thị giả tu sĩ đi cùng bất cứ nơi nào Ngài đi. Như thế, mọi người tôn vinh Ngài bằng danh hiệuBopa Tulku,’ tức vị Tulku từ miền Trung Tây Tạng.

Chính vào khoảng thời gian này, Ngài phát triển một sự xác quyết phi phàm với truyền thống độc đáo của Jamgon Mipham Rinpoche và cảm thấy rằng Ngài đơn giản phải gặp gỡ một vị đạotâm linh giữ gìn truyền thừa đó. Khi tìm hiểu, Ngài biết được rằng Kunpal Rinpoche từ Tu viện Gegong là một đệ tử trực tiếp của cả Patrul Rinpoche[5] và Mipham Rinpoche. Vì thế, Ngài đến đó để gặp vị này và sống trong khoảng thời gian dài ở Dzagyu, trở nên cực kỳ uyên bác về Kinh và Mật cùng mọi nhánh khoa học. Ngài cũng đến ẩn thất Changma, nơi Ngài diện kiến Bathur Khenpo Thubga[6].

Rất nhiều học trò từ khắp mọi nơi đã vân tập lại cùng nhau để truyền thống của Jamgon Mipham Rinpoche được giữ gìnduy trì, bởi nó được truyền lại cho nhiều đệ tử khác nhau, chẳng hạn Khenpo Chokhyab, Pema Tsewang Lhundrup, Mewa Khenpo Thubten, Rahor Khenpo Thubten và Khenpo Dazer.

Bopa Tulku đã biên soạn nhiều bộ luận chính và phụ, bao gồm Phân Biệt Tri KiếnGiáo Lý và tổng quan cùng với luận giải từng từ về Bát Nhã Ba La Mật. Ngài có một linh kiến về nhiếp chính Di Lặc trong một giấc mơ. Trong giấc mơ ấy, Ngài cầm một chiếc gương trong mỗi tay, trong đó, Ngài thấy rõ ràng bản văn gốc và luận giải cho Abhisamayālakāra [Hiện Quán Trang Nghiêm]. Sau đấy, một sự chắc chắn khởi lên trong tâm Ngài và Ngài soạn hai luận giải về Abhisamayālakāra với tựa đề Khẩu Truyền Của Đấng Vô Năng Thắng Di LặcTrang Nghiêm Linh Kiến Vô Năng Thắng Di Lặc.

Ngài cũng đã đến [Tu viện] Shechen Tennyi Dargye Ling[7], nơi Ngài sống tại Phật học việnchuyển Pháp luân. Sau khi Lama Kunpal viên tịch, Ngài tiếp tục các hoạt động giác ngộ mở rộng ở khắp vùng Dzagyu.

Khi Ngài du hành để gặp Đức Yukhok Chatral Choying Rangdrol (1872-1952), vị đạo sư này tuyên bố rằng một Bồ Tát vĩ đại sẽ đến vào hôm đó và ra ngoài để cung nghênh. Giữa một buổi lễ lớn, Ngài cung nghênh Bopa Tulku bằng sự kính trọng vô biên, công nhận Ngài là một hóa hiện của Pháp chủ Patrul Rinpoche và nói về cách mà bản thân Ngài nhớ về việc đã từng là Dola Jigme Kalzang[8]. Tâm trí tuệ của hai vị đạo sư vĩ đại này hòa làm một. Khi ấy trong đời, Botrul Rinpoche chỉ nói về các tác phẩm của Jamgon Mipham Rinpoche và Chatral Rinpoche nhiều lần tán thán sự hiểu phi phàm của Ngài.

Về sau, Ngài đã du hành đến Phật học viện Drikung Nyima Changra ở phần phía Bắc của miền Trung Tây Tạng và ban giáo lý về việc thành tựu các Tịnh độ cũng như giáo lý Kinh và Mật nói chung cho nhiều đệ tử may mắn một cách không mệt mỏi.

Tiểu sử ngắn gọn này được bổ sung bởi đệ tử trực tiếp của Ngài, Khenchen Pema Tsewang Lhundrup trong lúc du hành ở nước ngoài, tại Anh quốc để thúc đẩy truyền thống Giáo Pháp của Trường Phái Cổ Xưa.

 

Nguồn Anh ngữ: https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/khenpo-petse/bopa-tulku-biography.

Adam Pearcey chuyển dịch Tạng-Anh năm 2005.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Về Khenpo Petse Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a35606/mot-phac-thao-tu-truyen-ngan-gon.

[2] Theo Rigpawiki, Khenpo Kunzang Palden (khoảng 1862-1943) hay Kunpal (viết tắt, vị cũng được biết đến là Gegong Khenchen Kunzang Palden hoặc Thubten Kunzang Chokyi Drakpa) là một học giả vĩ đại của truyền thống Nyingma và là đệ tử thân cận và vị viết tiểu sử của Patrul Rinpoche. Ngài đã chào đời trong thung lũng Dzachukha ở Kham và xuất gia theo Khenpo Yonten Gyatso từ Tu viện Dzogchen. Sau khi thọ nhận trao truyền từ Đức Jamyang Khyentse Wangpo và Dzogchen Rinpoche thứ năm, Ngài trở thành một trong những vị trì giữ vĩ đại của truyền thừa Longchen Nyingtik. Ngài cũng là một học trò và vị viết tiểu sử của Mipham Rinpoche. Ngài đã giảng dạy tại Tu viện Gegong ở Dzachukha và là vị thầy đầu tiên tại Phật học viện của Tu viện Kathok, nơi Ngài được hỗ trợ bởi Khenpo Ngawang Palzang. Ngài đã để lại nhiều trước tác như Những Câu Chuyện Luật Tạng và một luận giải về Ngọn Đuốc Xác Quyết của Mipham Rinpoche. Ngài nổi tiếng nhất với luận giải về Nhập Bồ Tát Hạnh, thứ được giảng dạy cho đến ngày nay ở hầu hết các Phật học viện. Ngài là đạo sư chính yếu của Bopa Tulku và cũng đã dạy Khunu Lama Tenzin Gyaltsen.

[3] Về Jamgon Mipham Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a32261/3/tieu-su-duc-mipham-jamyang-namgyal-gyatso-1846-1912-.

[4] Theo RigpawikiTu viện Dzogchen – Rudam Orgyen Samten Choling, một trong sáu Tổ đình Nyingma của Tây Tạng, được thành lập bởi Tổ Dzogchen Pema Rigdzin (1625-1697) vào năm 1675 (theo Đại Từ Điển Tây Tạng) hoặc 1684 (theo Tổ Jamyang Khyentse Wangpo). Nó trở nên đặc biệt nổi tiếng bởi [Phật học viện] Shri Singha Shedra do Gyalse Shenphen Thaye thành lập dưới thời Dzogchen Rinpoche thứ tư – Mingyur Namkhe Dorje, không lâu sau khi Tu viện gần như bị phá hủy trong một trận động đất vào năm 1842. Trong những đạo sư vĩ đại đã từng sống và giảng dạy tại Dzogchen có Khenpo Pema Vajra, Patrul Rinpoche, Mipham Rinpoche và Khenpo Shenga.

Dưới thời của Dzogchen Rinpoche thứ năm (1872-1935), Tu viện Dzogchen ở thời kỳ đỉnh cao của các hoạt động, với năm trăm tu sĩ cư ngụ, mười ba trung tâm nhập thất và ước tính hai trăm tám mươi [Tu viện] nhánh – một tập hội gồm hàng vạn Lama, Tulku, Khenpo, Tăng và Ni. Quanh năm, một chuỗi những nghi lễ phức tạp mở rộng được cử hành.

Dzogchen cũng là một trong những trung tâm nổi tiếng nhất về vũ điệu nghi lễ linh thiêng, ngày nay thường được biết đến là vũ điệu Lama.

Ngôi chùa chính đã bị phá hủy bởi hỏa hoạn vào tháng Hai năm Hỏa Tý (1936). Nó được xây dựng lại và sau đó, toàn bộ Tu viện bị phá hủy bởi người Trung Quốc vào cuối thập niên 1950.

[5] Về Patrul Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a26125/4/tieu-su-van-tat-dai-su-dza-patrul-rinpoche-1808-1887-.

[6] Theo Rigpawiki, Changma Khenchen Thubten Chophel, tức Bathur Khenpo Thubga hay Thubga Yishin Norbu (1886-1956) – một đệ tử quan trọng của Khenpo Yonga và Orgyen Tenzin Norbu, vị đã theo chân Patrul Rinpoche. Ngài nổi tiếng về sự uyên bác lớn lao, đặc biệt về Mật điển Guhyagarbha, đóng góp của Ngài trong sự phát triển của truyền thống tu sĩ và sự chứng ngộ của Ngài về giáo lý Dzogchen. Một vài trong số những đệ tử quan trọng nhất của Ngài là Dilgo Khyentse Rinpoche, Khenpo Jigme Phuntsok, Gonpo Tseten Rinpoche, Chagdud Tulku Rinpoche và Dzogchen Rinpoche thứ sáu – Jigdral Changchub Dorje.

[7] Theo RigpawikiTu viện Shechen – một trong sáu Tổ đình Nyingma của Tây Tạng, được thành lập năm 1695 bởi Ngài Shechen Rabjam Tenpe Gyaltsen, vị được Đức Dalai Lama thứ năm cử đến Kham với mục đích này.

[8] Theo Rigpawiki, Dola Jigme Kalzang tức Chokyi Lodro hay Shonnu Yeshe Dorje (sinh 1789) – một đệ tử của Đức Dodrupchen thứ nhất – Jigme Trinle Ozer. Ngài đã công nhận Patrul Rinpoche là vị tái sinh của Palge Lama. Ngài đã ban nhiều trao truyền Nyingma, bao gồm cả Longchen Nyingtik, thay mặt cho Đức Dodrupchen. Tulku Thondup đã kể về cách mà Ngài hy sinh mạng sống vì lòng bi dành cho một tên trộm sắp bị xử tử ở Trung Quốc. Trong các hóa hiện của Ngài có Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22046)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27397)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37824)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20655)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14476)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19541)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14400)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20875)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28571)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27140)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21871)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21362)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26137)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21538)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23325)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23112)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19769)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22846)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21068)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19917)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15366)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 25991)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22478)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22787)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30408)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33135)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35464)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 26996)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17687)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24286)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14613)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant