Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol (1872–1952)

07 Tháng Tư 202119:29(Xem: 2084)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol (1872–1952)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol (1872–1952)

Nyoshul Khen Rinpoche[1]
  Pema Jyana


tieu su

Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje[2]đạo sư du mục[3] Choying Dorje từ Yukhok. Ngài đã sinh ra trong vùng được biết đến là Yukhok, một thung lũng gần rặng Drida Zalmo Gang ở miền Đông Tây Tạng. Ngài nói rằng từ thuở nhỏ, hành vi của Ngài thật hăng hái nhưng cũng thất thường. Phóng túng và thiếu kỷ luật, Ngài làm buồn phiền những vị mà tâm bất tịnh của họ nhìn nhận Ngài một cách sai lầm. Khoảng mười lăm tuổi, Ngài từ bỏ quê hương để gặp gỡ đạo sư Sangye Palden ở Gyangkhang Ritro, ẩn thất xa xôi của Tu viện Lhatse ở Hạ Ser. Những giáo lý của vị đạo sư này nhấn mạnh tính cần thiết của việc đạt được sự hiểu rốt ráo rằng vạn pháp vốn là Không. Ngài Choying Dorje thấu triệt điều này đúng như ý định của đạo sư và nhờ đó, đã chứng ngộ tri kiến tính Không. Trong một khoảng thời gian dài sau đó, Ngài lang thang quanh vùng lân cận của Tu viện Lhatse, thách những vị sống tại Phật học viện (Shedra) tranh luận các câu hỏi như “Các ông đang thiền định về điều gì? Các ông nói ‘tính Không’ là sao?”.

Sau đấy, Đức Sangye Palden từ Gyangkhang hướng dẫn Ngài Choying Rangdrol tìm kiếm Chagkong Terchen. Ngài đã khởi hànhcuối cùng đến được khu trại của vị này. Trong một khoảng thời gian, Ngài đã không được diện kiến đạo sư và Ngài cảm thấy khá nản lòng. Tuy nhiên, cuối cùng thì Ngài cũng được diện kiến Terchen Rinpoche, vị đang ngồi điềm tĩnh trên một cao nguyên vắng vẻ.

Đạo sư hỏi, “Con đến từ đâu?”. Ngài Choying Rangdrol lịch thiệp kể về nơi sinh và quá trình của bản thân.

“Vậy con hiểu được gì?”.

“Thưa Ngài, con hiểu tính Không”.

“Tính Không là gì? Nó ở đâu?”.

Ngài đáp, “Vạn pháp là Không”.

Đạo sư tóm lấy một con dao và khua. Ngài quở mắng, “Biến ngay!”. Sau khi quán chiếu một chút, Ngài bổ sung, “Thầy của ngươi từ các đời quá khứ là Adzom Drukpa! Hãy đi gặp Ngài!”. Ngay khi Ngài Choying Rangdrol nghe được danh hiệu của Đức Adzom Drukpa, niềm tin khiến Ngài nổi da gà và Ngài cảm thấy sự kính trọng và lòng sùng mộ vô biên. Với chút nhu yếu từ Terchen Rinpoche, Ngài lập tức khởi hành. Sau một hành trình dài và gian khổ, Ngài cuối cùng đến được khu trại của Đức Adzom Drukpa. Ngay khi đến trước sự hiện diện của đạo sư, sự kính trọng và sùng mộ vô biên khởi lên trong Ngài. Các kinh nghiệm thiền địnhchứng ngộ ló rạng trong tâm và Ngài sống tại khu trại trong thời gian dài. Trên nền tảng kinh nghiệm của bản thân, Đức Adzom Drukpa tỉ mỉ trao cho Ngài các trao truyền về mọi Mật điển, luận giải giải thíchchỉ dẫn cốt tủy cho các giáo lý Nyingtik bí mật của Đại Viên Mãn tự nhiên để Ngài Choying Rangdrol đạt được sự hiểu rốt ráo về các điểm then chốt riêng biệt của chúng. Đạo sư giới thiệu trực tiếp cho Ngài ý định giác ngộ của việc nhìn nhận các hình tướng tự nhiên hiển bày của giác tính không chút thành kiến. Trong ba năm, theo những chỉ dẫn của đạo sư, Ngài tiến hành thực hành rốt ráo tập trung vào tinh túy, dấn thân trên con đường theo đuổi chỉ giác tính thanh tịnh cho đến khi đạt được mức độ tự tin chân chính về sự chứng ngộ của bản thân về Đại Viên Mãn tự nhiên. Cực kỳ hài lòng, đạo sư trao cho Ngài tất cả các chỉ dẫn, như bình này đổ đầy bình khác. Ngài Choying Rangdrol như thế được trao quyền là vị trì giữ dòng truyền thừa rốt ráo của sự chứng ngộ.

Sau đấy, đạo sư bảo Ngài thiền định ở một nơi xa xôi gọi là Renang ở Hạ Ser, từ bỏ mọi bận tâm thế tục và giương cao cờ chiến thắng của sự thực hành. Tuân theo những mệnh lệnh này, Ngài Choying Rangdrol đã sống hoàn toàn nhờ cây tầm ma và nước và tiến hành những khổ tu nghiêm ngặt như những gì được miêu tả trong tiểu sử của Đức Milarepa. Sau khi thiền định trong ba năm, Ngài trực tiếp trải nghiệm ý định giác ngộ không thành kiến của Pháp thân, Đại Viên Mãn tự nhiên. Ngài trở về gặp đạo sưcúng dường một miêu tả về sự chứng ngộ của bản thân. Một lần nữa quá đỗi hoan hỷ, Đức Adzom Drukpa bảo rằng, “Bây giờ là lúc con dẫn dắt những vị con cần điều phục. Hãy trở về quê hương và chịu trách nhiệm cho các học trò vân tập quanh con”. Vì thế, Ngài Choying Rangdrol đến Yakyegar ở Hạ Ser, gần thung lũng quê nhà. Tuân theo chỉ dẫn của đạo sư, Ngài đã thành lập một khu trại, nơi Ngài thề sẽ dành phần còn lại của cuộc đời để hành trì tâm linh.

Sau khi nghe về các hoạt động tâm linh của Dodrupchen Rinpoche, Ngài Choying Rangdrol đã thúc giục Lerab Lingpa[4], vị Terton từ Nyarong, “Hãy đến tu học với Đức Dodrup Tenpai Nyima và nghiên cứu những điểm then chốt mà khó hiểu trong Phần Chỉ Dẫn Trực Tiếp của giáo lý Nyingtik, cũng như các điểm then chốt sâu xa của giai đoạn phát triểnhoàn thiện. Sau đấy, hãy dạy lại chúng cho tôi”. Theo cách này, Ngài Choying Rangdrol đã thọ nhận toàn bộ giáo lý khẩu truyền của Đức Tenpai Nyima[5] thông qua Terton tôn quý từ Nyarong. Sau đó, Ngài chuyển Pháp luân Đại Viên Mãn tự nhiên, ban chúng cho các học trò, những vị đã vân tập về từ khắp các vùng của miền Đông Tây Tạng, từ Golok ở phía Bắc đến biên giới Trung Quốc trong những vùng đất thấp. Ngài đã đưa vô số học trò may mắn đến sự trưởng thành tâm linh nhờ giảng dạy dựa trên trải nghiệm bản thân của họ.

Cả Khenchen Ngawang Palzang và đấng bảo hộ này đều được xem là hóa hiện của đạo sư Vimalamitra [Vô Cấu Hữu[6]] và hoạt động giác ngộ của chư vị cũng như lợi lạc mà chư vị đem đến cho chúng sinh thật to lớn. Ngài Choying Rangdrol có thể nhớ rõ ràng đời quá khứ khi là Đức Yudra Nyingpo[7]. Ngài có những linh kiến về chư Tôn thiền định và luôn duy trì tri kiến thanh tịnh về thế giới. Ngài đã giới thiệu cho tất cả học trò bản tính chân thật của họ tùy theo căn cơ riêng, làm khởi lên sự chứng ngộ trong tâm mỗi vị. Bằng cách cấm săn bắt và đánh cá trên núi non và thung lũng và khích lệ mọi người trì tụng Chân ngôn Om Mani Padme Hung và làm những thiện hạnh khác, tầm ảnh hưởng của Ngài trùm khắp miền Đông Tây Tạng.

Ngài đã dành trọn cuộc đời để tham gia vào những hoạt động giác ngộ như vậy, sống đến ngoài tám mươi tuổi. Các học trò của Ngài – những tâm tử nam và nữ được nuôi dưỡng bằng cam lồ từ khẩu giác ngộ của Ngài – bao gồm những đấng tôn quý, đạo sư, vị cai quản, Tulku, học giả, thành tựu giả, Yogi và nhiều vị khác từ khắp miền Đông Tây Tạng, khiến gần như chẳng có ai không đỉnh lễ dưới chân Ngài. Trong số các học trò căn bản cao quý nhất, những vị trì giữ truyền thừa, hai Yogi vĩ đại – Drime Ozer từ Rakor và Chokden từ Dowa đã đạt được sự chứng ngộ tức thì. Purpa từ Thượng Drong và nhiều vị khác đã thành tựu thân cầu vồng; và có những học trò khác, chẳng hạn Khenpo Chonyi Seltong, Pema Dorje, Drigor Gongtse, Lama Garde, Gyarong Tsondru, Khenchen Chokhyab[8] và Godzi Terton. Những học trò này đã phụng sự giáo lý thù thắng, thứ tập trung vào tinh túy, ở mức độ bao la. Vị đạophi phàm và tôn quý nắm giữ truyền thừa của Ngài Choying Rangdrol chính là Đức Dodrupchen thứ tư[9].

 

Nguồn Anh ngữ: Nyoshul Khenpo Jamyang Dorje, A Marvelous Garland of Rare Gems – Biographies of Masters of Awareness in the Dzogchen Lineage [tạm dịch: Tràng Ngọc Báu Hiếm Có Tuyệt Diệu – Tiểu Sử Chư Đạo Sư Giác Tính Trong Truyền Thừa Dzogchen], Padma Publishing.

Richard Barron (Lama Chokyi Nyima) chuyển dịch Tạng-Anh.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Về Nyoshul Khen Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a35078/tieu-su-van-tat-nyoshul-khenpo-jamyang-dorje.

[2] Về Đức Adzom Drukpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a34938/tieu-su-van-tat-adzom-drukpa-rinpoche-drodul-pawo-dorje-1842-1924-.

[3] Thuật ngữ Chatralwa trong Tạng ngữ (nghĩa đen, “ai đó thoát khỏi việc có bất kỳ điều gì phải làm”) liên quan đến ai đó có sự chứng ngộ cao, vị có lối sống đơn giản, thường thì du mục với rất ít tài sản và chẳng bận tâm đến các vấn đề thế tục.

[4] Về Đức Lerab Lingpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a33571/3/tieu-su-terton-sogyal.

[5] Về Đức [Dodrupchen Rinpoche] Tenpai Nyima, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a35305/tieu-su-van-tat-duc-dodrupchen-thu-ba-jigme-tenpai-nyima-1865-1926-.

[6] Theo Rigpawiki, Vimalamitra – Vô Cấu Hữu hay Mahavajra là một trong ba đạo sư Phật giáo Ấn Độ uyên bác nhất. Ngài đã đến Tây Tạng vào thế kỷ 9, nơi Ngài giảng dạy rộng khắp và biên soạn cũng như chuyển dịch nhiều bản văn Phạn ngữTinh túy của các giáo lý của Ngài được biết đến là Vima Nyingtik, một trong những giáo lý Tâm Yếu của Đại Viên Mãn.

Vimalamitra dành mười ba năm ở Tây Tạng và sau đó, hứa khả sẽ trở lại Tây Tạng mỗi một trăm năm để củng cố giáo lý Tịnh Quang Đại Viên Mãn, Ngài đến Ngũ Đài Sơn của Trung Quốc. Ở đó, Ngài duy trì Thân Cầu Vồng – ‘Thân Đại Chuyển Di’ và sẽ an trụ như vậy cho đến khi tất cả 1002 vị Phật của Hiền Kiếp này xuất hiện. Khi chư vị đều đã xuất hiện, Ngài sẽ đến Kim Cương Tòa ở Ấn Độ một lần nữa và hiển bày trạng thái giác ngộ viên mãn.

[7] Theo Rigpawiki, Yudra Nyingpo – một trong hai mươi lăm đệ tử của Guru Rinpoche. Ngài là một dịch giả và học giả vĩ đại, vị thọ nhận giáo lý từ Vairotsana, Vimalamitra và Guru Rinpoche. Ngài đã dịch nhiều tác phẩm, trong đó có mười ba bản văn cuối trong mười tám bản văn Semde.

[8] Theo Rigpawiki, Khenpo Chokhyab, tức Ngài Pema Choying Khyabdal (1920-1997) – một học trò quan trọng của Đức Yukhok Chatralwa, Popa Tulku và Khenpo Thubga. Ngài đã nghiên cứu trong ba năm với Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol, thọ nhận những chỉ dẫn cốt tủy Dzogchen phi phàm của Nyingtik, sau đấy, nghiên cứu mười hai năm với Popa Tulku; nhờ đó, Ngài trở thành một học giả vĩ đại và một đạo sư vô cùng chứng ngộ. Ngài viên tịch vào ngày 3 tháng 3 năm Hỏa Sửu (1997).

[9] Về Dodrupchen Rinpoche thứ tư, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a34113/2/tieu-su-van-tat-duc-dodrupchen-thu-tu-jigme-trinle-palbar.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21380)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22163)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16871)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 13422)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22808)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19006)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18463)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21626)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20023)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14073)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15009)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 17240)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15882)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12996)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13135)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 22650)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 19366)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37697)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 17893)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14565)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19710)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14632)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 15925)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 29828)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 17766)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 18530)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 19924)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 19096)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18563)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20695)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19413)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18525)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 29863)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 21602)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 20811)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26314)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 52136)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 21789)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 35029)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 17250)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18028)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19584)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 17469)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 30827)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19178)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 19540)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19759)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 19387)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 58758)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 19765)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 19121)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15110)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33041)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17486)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19124)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 22998)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16617)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16465)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16504)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22981)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant