Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol (1872–1952)

07 Tháng Tư 202119:29(Xem: 2076)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol (1872–1952)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol (1872–1952)

Nyoshul Khen Rinpoche[1]
  Pema Jyana


tieu su

Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje[2]đạo sư du mục[3] Choying Dorje từ Yukhok. Ngài đã sinh ra trong vùng được biết đến là Yukhok, một thung lũng gần rặng Drida Zalmo Gang ở miền Đông Tây Tạng. Ngài nói rằng từ thuở nhỏ, hành vi của Ngài thật hăng hái nhưng cũng thất thường. Phóng túng và thiếu kỷ luật, Ngài làm buồn phiền những vị mà tâm bất tịnh của họ nhìn nhận Ngài một cách sai lầm. Khoảng mười lăm tuổi, Ngài từ bỏ quê hương để gặp gỡ đạo sư Sangye Palden ở Gyangkhang Ritro, ẩn thất xa xôi của Tu viện Lhatse ở Hạ Ser. Những giáo lý của vị đạo sư này nhấn mạnh tính cần thiết của việc đạt được sự hiểu rốt ráo rằng vạn pháp vốn là Không. Ngài Choying Dorje thấu triệt điều này đúng như ý định của đạo sư và nhờ đó, đã chứng ngộ tri kiến tính Không. Trong một khoảng thời gian dài sau đó, Ngài lang thang quanh vùng lân cận của Tu viện Lhatse, thách những vị sống tại Phật học viện (Shedra) tranh luận các câu hỏi như “Các ông đang thiền định về điều gì? Các ông nói ‘tính Không’ là sao?”.

Sau đấy, Đức Sangye Palden từ Gyangkhang hướng dẫn Ngài Choying Rangdrol tìm kiếm Chagkong Terchen. Ngài đã khởi hànhcuối cùng đến được khu trại của vị này. Trong một khoảng thời gian, Ngài đã không được diện kiến đạo sư và Ngài cảm thấy khá nản lòng. Tuy nhiên, cuối cùng thì Ngài cũng được diện kiến Terchen Rinpoche, vị đang ngồi điềm tĩnh trên một cao nguyên vắng vẻ.

Đạo sư hỏi, “Con đến từ đâu?”. Ngài Choying Rangdrol lịch thiệp kể về nơi sinh và quá trình của bản thân.

“Vậy con hiểu được gì?”.

“Thưa Ngài, con hiểu tính Không”.

“Tính Không là gì? Nó ở đâu?”.

Ngài đáp, “Vạn pháp là Không”.

Đạo sư tóm lấy một con dao và khua. Ngài quở mắng, “Biến ngay!”. Sau khi quán chiếu một chút, Ngài bổ sung, “Thầy của ngươi từ các đời quá khứ là Adzom Drukpa! Hãy đi gặp Ngài!”. Ngay khi Ngài Choying Rangdrol nghe được danh hiệu của Đức Adzom Drukpa, niềm tin khiến Ngài nổi da gà và Ngài cảm thấy sự kính trọng và lòng sùng mộ vô biên. Với chút nhu yếu từ Terchen Rinpoche, Ngài lập tức khởi hành. Sau một hành trình dài và gian khổ, Ngài cuối cùng đến được khu trại của Đức Adzom Drukpa. Ngay khi đến trước sự hiện diện của đạo sư, sự kính trọng và sùng mộ vô biên khởi lên trong Ngài. Các kinh nghiệm thiền địnhchứng ngộ ló rạng trong tâm và Ngài sống tại khu trại trong thời gian dài. Trên nền tảng kinh nghiệm của bản thân, Đức Adzom Drukpa tỉ mỉ trao cho Ngài các trao truyền về mọi Mật điển, luận giải giải thíchchỉ dẫn cốt tủy cho các giáo lý Nyingtik bí mật của Đại Viên Mãn tự nhiên để Ngài Choying Rangdrol đạt được sự hiểu rốt ráo về các điểm then chốt riêng biệt của chúng. Đạo sư giới thiệu trực tiếp cho Ngài ý định giác ngộ của việc nhìn nhận các hình tướng tự nhiên hiển bày của giác tính không chút thành kiến. Trong ba năm, theo những chỉ dẫn của đạo sư, Ngài tiến hành thực hành rốt ráo tập trung vào tinh túy, dấn thân trên con đường theo đuổi chỉ giác tính thanh tịnh cho đến khi đạt được mức độ tự tin chân chính về sự chứng ngộ của bản thân về Đại Viên Mãn tự nhiên. Cực kỳ hài lòng, đạo sư trao cho Ngài tất cả các chỉ dẫn, như bình này đổ đầy bình khác. Ngài Choying Rangdrol như thế được trao quyền là vị trì giữ dòng truyền thừa rốt ráo của sự chứng ngộ.

Sau đấy, đạo sư bảo Ngài thiền định ở một nơi xa xôi gọi là Renang ở Hạ Ser, từ bỏ mọi bận tâm thế tục và giương cao cờ chiến thắng của sự thực hành. Tuân theo những mệnh lệnh này, Ngài Choying Rangdrol đã sống hoàn toàn nhờ cây tầm ma và nước và tiến hành những khổ tu nghiêm ngặt như những gì được miêu tả trong tiểu sử của Đức Milarepa. Sau khi thiền định trong ba năm, Ngài trực tiếp trải nghiệm ý định giác ngộ không thành kiến của Pháp thân, Đại Viên Mãn tự nhiên. Ngài trở về gặp đạo sưcúng dường một miêu tả về sự chứng ngộ của bản thân. Một lần nữa quá đỗi hoan hỷ, Đức Adzom Drukpa bảo rằng, “Bây giờ là lúc con dẫn dắt những vị con cần điều phục. Hãy trở về quê hương và chịu trách nhiệm cho các học trò vân tập quanh con”. Vì thế, Ngài Choying Rangdrol đến Yakyegar ở Hạ Ser, gần thung lũng quê nhà. Tuân theo chỉ dẫn của đạo sư, Ngài đã thành lập một khu trại, nơi Ngài thề sẽ dành phần còn lại của cuộc đời để hành trì tâm linh.

Sau khi nghe về các hoạt động tâm linh của Dodrupchen Rinpoche, Ngài Choying Rangdrol đã thúc giục Lerab Lingpa[4], vị Terton từ Nyarong, “Hãy đến tu học với Đức Dodrup Tenpai Nyima và nghiên cứu những điểm then chốt mà khó hiểu trong Phần Chỉ Dẫn Trực Tiếp của giáo lý Nyingtik, cũng như các điểm then chốt sâu xa của giai đoạn phát triểnhoàn thiện. Sau đấy, hãy dạy lại chúng cho tôi”. Theo cách này, Ngài Choying Rangdrol đã thọ nhận toàn bộ giáo lý khẩu truyền của Đức Tenpai Nyima[5] thông qua Terton tôn quý từ Nyarong. Sau đó, Ngài chuyển Pháp luân Đại Viên Mãn tự nhiên, ban chúng cho các học trò, những vị đã vân tập về từ khắp các vùng của miền Đông Tây Tạng, từ Golok ở phía Bắc đến biên giới Trung Quốc trong những vùng đất thấp. Ngài đã đưa vô số học trò may mắn đến sự trưởng thành tâm linh nhờ giảng dạy dựa trên trải nghiệm bản thân của họ.

Cả Khenchen Ngawang Palzang và đấng bảo hộ này đều được xem là hóa hiện của đạo sư Vimalamitra [Vô Cấu Hữu[6]] và hoạt động giác ngộ của chư vị cũng như lợi lạc mà chư vị đem đến cho chúng sinh thật to lớn. Ngài Choying Rangdrol có thể nhớ rõ ràng đời quá khứ khi là Đức Yudra Nyingpo[7]. Ngài có những linh kiến về chư Tôn thiền định và luôn duy trì tri kiến thanh tịnh về thế giới. Ngài đã giới thiệu cho tất cả học trò bản tính chân thật của họ tùy theo căn cơ riêng, làm khởi lên sự chứng ngộ trong tâm mỗi vị. Bằng cách cấm săn bắt và đánh cá trên núi non và thung lũng và khích lệ mọi người trì tụng Chân ngôn Om Mani Padme Hung và làm những thiện hạnh khác, tầm ảnh hưởng của Ngài trùm khắp miền Đông Tây Tạng.

Ngài đã dành trọn cuộc đời để tham gia vào những hoạt động giác ngộ như vậy, sống đến ngoài tám mươi tuổi. Các học trò của Ngài – những tâm tử nam và nữ được nuôi dưỡng bằng cam lồ từ khẩu giác ngộ của Ngài – bao gồm những đấng tôn quý, đạo sư, vị cai quản, Tulku, học giả, thành tựu giả, Yogi và nhiều vị khác từ khắp miền Đông Tây Tạng, khiến gần như chẳng có ai không đỉnh lễ dưới chân Ngài. Trong số các học trò căn bản cao quý nhất, những vị trì giữ truyền thừa, hai Yogi vĩ đại – Drime Ozer từ Rakor và Chokden từ Dowa đã đạt được sự chứng ngộ tức thì. Purpa từ Thượng Drong và nhiều vị khác đã thành tựu thân cầu vồng; và có những học trò khác, chẳng hạn Khenpo Chonyi Seltong, Pema Dorje, Drigor Gongtse, Lama Garde, Gyarong Tsondru, Khenchen Chokhyab[8] và Godzi Terton. Những học trò này đã phụng sự giáo lý thù thắng, thứ tập trung vào tinh túy, ở mức độ bao la. Vị đạophi phàm và tôn quý nắm giữ truyền thừa của Ngài Choying Rangdrol chính là Đức Dodrupchen thứ tư[9].

 

Nguồn Anh ngữ: Nyoshul Khenpo Jamyang Dorje, A Marvelous Garland of Rare Gems – Biographies of Masters of Awareness in the Dzogchen Lineage [tạm dịch: Tràng Ngọc Báu Hiếm Có Tuyệt Diệu – Tiểu Sử Chư Đạo Sư Giác Tính Trong Truyền Thừa Dzogchen], Padma Publishing.

Richard Barron (Lama Chokyi Nyima) chuyển dịch Tạng-Anh.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Về Nyoshul Khen Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a35078/tieu-su-van-tat-nyoshul-khenpo-jamyang-dorje.

[2] Về Đức Adzom Drukpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a34938/tieu-su-van-tat-adzom-drukpa-rinpoche-drodul-pawo-dorje-1842-1924-.

[3] Thuật ngữ Chatralwa trong Tạng ngữ (nghĩa đen, “ai đó thoát khỏi việc có bất kỳ điều gì phải làm”) liên quan đến ai đó có sự chứng ngộ cao, vị có lối sống đơn giản, thường thì du mục với rất ít tài sản và chẳng bận tâm đến các vấn đề thế tục.

[4] Về Đức Lerab Lingpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a33571/3/tieu-su-terton-sogyal.

[5] Về Đức [Dodrupchen Rinpoche] Tenpai Nyima, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a35305/tieu-su-van-tat-duc-dodrupchen-thu-ba-jigme-tenpai-nyima-1865-1926-.

[6] Theo Rigpawiki, Vimalamitra – Vô Cấu Hữu hay Mahavajra là một trong ba đạo sư Phật giáo Ấn Độ uyên bác nhất. Ngài đã đến Tây Tạng vào thế kỷ 9, nơi Ngài giảng dạy rộng khắp và biên soạn cũng như chuyển dịch nhiều bản văn Phạn ngữTinh túy của các giáo lý của Ngài được biết đến là Vima Nyingtik, một trong những giáo lý Tâm Yếu của Đại Viên Mãn.

Vimalamitra dành mười ba năm ở Tây Tạng và sau đó, hứa khả sẽ trở lại Tây Tạng mỗi một trăm năm để củng cố giáo lý Tịnh Quang Đại Viên Mãn, Ngài đến Ngũ Đài Sơn của Trung Quốc. Ở đó, Ngài duy trì Thân Cầu Vồng – ‘Thân Đại Chuyển Di’ và sẽ an trụ như vậy cho đến khi tất cả 1002 vị Phật của Hiền Kiếp này xuất hiện. Khi chư vị đều đã xuất hiện, Ngài sẽ đến Kim Cương Tòa ở Ấn Độ một lần nữa và hiển bày trạng thái giác ngộ viên mãn.

[7] Theo Rigpawiki, Yudra Nyingpo – một trong hai mươi lăm đệ tử của Guru Rinpoche. Ngài là một dịch giả và học giả vĩ đại, vị thọ nhận giáo lý từ Vairotsana, Vimalamitra và Guru Rinpoche. Ngài đã dịch nhiều tác phẩm, trong đó có mười ba bản văn cuối trong mười tám bản văn Semde.

[8] Theo Rigpawiki, Khenpo Chokhyab, tức Ngài Pema Choying Khyabdal (1920-1997) – một học trò quan trọng của Đức Yukhok Chatralwa, Popa Tulku và Khenpo Thubga. Ngài đã nghiên cứu trong ba năm với Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol, thọ nhận những chỉ dẫn cốt tủy Dzogchen phi phàm của Nyingtik, sau đấy, nghiên cứu mười hai năm với Popa Tulku; nhờ đó, Ngài trở thành một học giả vĩ đại và một đạo sư vô cùng chứng ngộ. Ngài viên tịch vào ngày 3 tháng 3 năm Hỏa Sửu (1997).

[9] Về Dodrupchen Rinpoche thứ tư, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a34113/2/tieu-su-van-tat-duc-dodrupchen-thu-tu-jigme-trinle-palbar.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22043)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27382)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37821)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20650)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14467)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19540)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14393)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20867)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28562)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27131)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21859)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21354)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26131)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21530)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23315)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23105)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19763)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22840)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21047)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19905)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15364)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 25986)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22473)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22777)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30405)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33131)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35458)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 26975)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17675)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24278)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14608)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant