Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Sử Vắn Tắt Bardor Tulku Rinpoche Thứ Ba (1949-2021)

26 Tháng Tư 202118:46(Xem: 2017)
Tiểu Sử Vắn Tắt Bardor Tulku Rinpoche Thứ Ba (1949-2021)
Tiểu Sử Vắn Tắt Bardor Tulku Rinpoche Thứ Ba (1949-2021)

Pema Jyana

Tiểu Sử Vắn Tắt Bardor Tulku Rinpoche Thứ Ba (1949-2021)

Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].

Là một đứa bé cùng với gia đình và vị giáo thọ, Ngài duy trì lối sống du mục. Rinpoche lên sáu khi Ngài rời miền Đông Tây Tạng cùng với ông bà trong hành trình đưa Ngài trước tiên đến Lhasa, sau đó Tsurphu và cuối cùng đến Drikung, nơi Rinpoche lưu lại trong hai năm tại nhà của ông bà Ngài.

Sau khi ông bà của Rinpoche qua đời, cha mẹanh chị em Ngài đoàn tụ với Ngài ở Drikung. Khi tình hình chính trị và xã hộiTây Tạng trở nên tồi tệ hơn bởi sự xâm chiếm của Cộng sản Trung Quốc, Rinpoche và gia đìnhban đầu là một đoàn mười ba người – khởi hành đến Ấn Độ, vượt Himalaya cùng với nhiều người Tây Tạng khác, những vị cũng đang chạy trốn khỏi cuộc chiến.

Họ đã du hành qua Kongpo đến Pema Ku. Ở Pema Ku, tại biên giới của Tây TạngẤn Độ, bởi hành trình gian khổ, tất cả thành viên gia đình của Rinpoche đều qua đời. Khi cha của Rinpoche – thành viên cuối cùng của gia đình – qua đời, Rinpoche rời Pema Ku và tiếp tục hướng về Assam cùng những người tỵ nạn khác.

Tại thị trấn được biết đến là Bomdila, nơi mà biên giới của Tây Tạng, Bhutan và Ấn Độ gặp nhau, một cuộc tấn công bằng bom đã khiến đoàn người phân tán. Rinpoche và một người bạn trẻ tuổi thoát khỏi cuộc tấn công và đi về phía Tây, dọc theo biên giới của Bhutan và Ấn Độ, đến Siliguri và cuối cùng là đến Darjeeling. Khi họ đến Darjeeling, Đức Karmapa thứ 16 được thông báo rằng Rinpoche đã an toàn thoát khỏi Tây Tạng. Vô cùng hoan hỷ trước tin tốt lành này, Đức Karmapa đã sắp xếp để Rinpoche được cung nghênh về Sikkim và để người bạn của Rinpoche được chăm sóc.

Bardor Tulku Rinpoche được tấn phong là một Tulku tại Tu viện Rumtek ở tuổi thanh thiếu niên. Cũng chính tại Tu viện Rumtek, dưới sự dạy dỗ của Đức Karmapa thứ 16, sự rèn luyện chính thức của Rinpoche đã diễn ra.

Sau khi hoàn thành nhiều năm nghiên cứuthực hành, Bardor Tulku Rinpoche đi thị giả Đức Karmapa thứ 16 trong hành trình [hoằng Pháp] thế giới vào các năm 1974 và 1976. Năm 1977, Đức Karmapa yêu cầu Rinpoche ở lại Woodstock, New York, tại Karma Triyana Dharmachakra (KTD). Trong hai năm đầu tiên tại KTD, Rinpoche đã làm việc cùng mọi người để cải tạo và chuẩn bị ngôi nhà và chuẩn bị cho chuyến viếng thăm cuối cùng của Đức Karmapa thứ 16 đến phương Tây.

Trong chuyến viếng thăm cuối cùng vào năm 1980, Đức Karmapa đã chỉ dạy rằng trụ xứ tu sĩ của Ngài tại Bắc Mỹ cần được thiết lập tại KTD và Ngài đã cử hành lễ thánh hóa chính thức.  Sau lễ động thổ vào tháng Năm năm 1982, Bardor Rinpoche điều hành các hoạt động xây dựng và trực tiếp làm việc mỗi ngày để xây dựng Tu viện. Khi việc xây dựng chính điện về cơ bản hoàn mãn vào đầu những năm 1990, Ngài đảm nhận các trách nhiệm là vị thầy tại KTD và các trung tâm nhánh Karma Thegsum Choling (KTC). Bardor Rinpoche đã phục vụ KTD và các trung tâm nhánh KTC trong hơn ba mươi năm.

Rinpoche sống cùng với vị phối ngẫu của Ngài – Sonam Chotso Lama trong ngôi nhà của họ ở phía bên kia Magic Meadow cùng với ba con gái – Karma, Chime và Rigdzin. Khi không tham gia vào hoạt động Phật sự, Ngài tận hưởng việc chơi trò chơi bàn cờ, đi bộ tại hồ chứa, kết bạn với những con sóc chuột bản địa và cho chúng ăn. Ngài cũng thích chơi đùa với hai cháu gái nhỏ – Uggi và Baby T. Ngài hoan nghênh mọi người, bất kể họ có phải Phật tử hay không và luôn quan tâm đến sự an lành của họ. Ngài yêu mến vùng Woodstock với những ngọn núi và cảm thấy nơi đây thật linh thiêng. Ngài đã du hành khắp thế giới để giảng dạy Giáo Pháptrưởng dưỡng sự hành trì của các học trò Giáo Pháp.

Vào cuối những năm 1970, Đức Karmapa thứ 16 gửi cho Bardor Tulku Rinpoche bức thư ngắn riêng sau đây.

Bardor Rinpoche thân mến,

Lời cầu nguyện rằng Giáo Pháp của con có thể lan tỏa khắp Nam Thiệm Bộ Châu luôn ở trong tâm Ta, cả ngày lẫn đêm.

Đừng rụt rè về điều này; hãy sốt sắng.

Ta cầu nguyện rằng Ta sớm gặp con.

Karmapa

Bardor Tulku Rinpoche vẫn giữ bức thư ngắn được trân trọng này nhưng Ngài không chắc ý nghĩa chính xác của nó là gì.

Năm 1999, Bardor Rinpoche có những giấc mơ vô cùng sống động về Đức Karmapa thứ 16 và trong lúc thức, Ngài cảm nhận mạnh mẽ sự hiện diện của Đức Karmapa đến mức Ngài có thể nhận thấy mùi của Đức Karmapa. Giấc mơ về Đức Karmapa thứ 16 đã giúp Bardor Tulku Rinpoche quyết định rằng đã đến lúc bắt đầu truyền bá những giáo lý của Terchen Barway Dorje (vị Bardor Rinpoche thứ nhất) ở phương Tây.

Năm 2000, với sự gia trì từ Đức Karmapa thứ 17 và Ngài Tai Situ Rinpoche thứ 12, Bardor Tulku Rinpoche thành lập Tổ Chức Raktrul [Raktrul Foundation] để giúp tái xây dựng Tu viện Raktrul ở Tây Tạngcung cấp những phương tiện giáo dục cho chư Tăng, Ni và cộng đồng cư sĩ. Năm 2003, Rinpoche thành lập Kunzang Palchen Ling (KPL), một Trung Tâm Phật Giáo Tây Tạng ở Red Hook, New York. Dựa trên các nguyên tắc bất bộ phái, KPL cung cấp Giáo Pháp từ mọi truyền thống của Phật giáo Tây Tạng và đóng vai trò là là một căn cứ để giữ gìn và đưa những giáo lý Terma của Terchen Barway Dorje đến phương Tây.

Kể từ đó, Bardor Tulku Rinpoche đã điều hành các hoạt động của Kunzang Palchen Ling và dẫn dắt các Nhóm Tu Học Palchen trên khắp đất nước, cũng như giám sát việc chuyển dịch các bản văn Terma của Terchen Barway Dorje. Năm 2020, Rinpoche hoàn thành việc xây dựng Kunzang Palchen Ling, nơi tiếp tục giữ gìn giáo lý từ truyền thừa của Ngài và cung cấp nền tảng cho hoạt động của cộng đồng Giáo Pháp của Ngài. Nhờ tầm nhìn và kinh nghiệm của Rinpoche, KPL trở thành hình mẫu tuyệt vời về một trung tâm Giáo Pháp ở Hoa Kỳ. Đây cũng là địa điểm gia trì tuyệt vời, nơi lưu giữ nhiều bức tượng chư Phật và Bồ Tát mà Rinpoche nỗ lực không mệt mỏi để thu thập. Ngài đã sống cuộc đời làm lợi lạc chúng sinhphụng sự Phật Pháp[2]. Đông đảo học trò sùng kính của Ngài đều mong mỏi sự tái sinh nhanh chóng của Ngài, lễ tấn phong và sự tiếp tục các hoạt động của Ngài.

 

Nguồn Anh ngữ: A Brief Biography of the Third Bardor Rinpoche (https://www.kunzang.org/).

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Terchen Barway Dorje (1836-1920), một học trò thân thiết của Đức Chokgyur Lingpa. Trụ xứ gốc của Ngài là Tu viện Surmang thuộc Karma Kagyu. Ngài có vô số Terma và cũng có tầm ảnh hưởng trong việc giữ gìn giáo lý của trường phái Barom Kagyu. Terchen Barway Dorje là anh trai của Bà Dege, vị phối ngẫu chính yếu của Đức Chokgyur Lingpa. Ngài đã phụng sự Đức Chokgyur Lingpa cho đến khi vị này viên tịch.

[2] Bardor Rinpoche viên tịch vào thứ Năm ngày 01/04/2021 lúc 4h38 chiều giờ EDT [tức 3h38 sáng thứ Sáu ngày 02/04/2021 giờ Việt Nam].

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22066)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27441)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37845)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20667)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14487)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19552)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14411)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20891)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28595)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27161)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21887)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21395)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26156)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21554)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23356)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23141)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19782)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22881)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21092)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19926)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15381)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26009)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22496)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22806)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30425)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33163)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35487)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27021)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17704)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24310)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14626)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant