Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tạo Không Gian Cho Pháp

09 Tháng Năm 202117:56(Xem: 2045)
Tạo Không Gian Cho Pháp

Tạo Không Gian Cho Pháp

Lama Yeshe
Minh Hằng

 

LÀM CHO THỰC HÀNH PHÁP HIỆU QUẢ

Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp; Pháp huệ mang lại giải pháp sâu xa nhất cho từng vấn đề con người. Bất cứ ai có vấn đề đều cần Pháp; Pháp huệ là ánh sáng xua tan bóng tối của vô minh, căn nguyên chủ yếu cho mọi phiền não của con người.

Triết lý Pháp không phải là Pháp; học thuyết không phải là Pháp; nghệ thuật tôn giáo không phải là Pháp. Pháp không phải là bức tượng đó của Đức Phật trên bàn thờ của bạn. Pháp là sự hiểu biết bên trong về thực tại dẫn dắt chúng ta vượt qua bóng tối của vô minh, vượt khỏi bất như ý.

Chỉ thừa nhận suông Pháp là chân thực thì không đủ. Chúng ta cũng phải hiểu thực tại riêng của mình, những nhu cầu cụ thể của mình và mục đích của Pháp vì Pháp liên quan đến chúng ta như là những cá nhân. Nếu chúng ta chỉ thừa nhận Pháp vì những lý do phong tục hoặc văn hóa, thì Pháp không mang lại hiệu quả thích đáng cho tâm của chúng ta. Ví dụ, tôi sai khi nghĩ “Mình là người Tây Tạng, vì thế, mình là phật tử Đại Thừa”. Có lẽ tôi có thể nói về triết lý Đại Thừa, nhưng phật tử Đại Thừa với Pháp Đại Thừa trong lòng tôi là một việc khác.

Bạn có thể được sinh ra trong một quốc gia theo Phật giáo, trong một môi trường mà tôn giáo được thừa nhận, nhưng nếu bạn không sử dụng tôn giáo đó để đạt sự hiểu biết về thực tại của chính tâm mình, thì có rất ít ý nghĩa để trở thành một tín đồ. Pháp không thể giải quyết vấn đề của bạn nếu bạn không tiếp cận Pháp một cách thực tế. Bạn nên tìm kiếm tri thức Pháp để ngừng những vấn đề của mình, làm cho chính mình khỏe mạnh tinh thần – về mặt tôn giáo là để khám phá hạnh phúc, bình ancực lạc vĩnh cửu.

Chính chúng ta chịu trách nhiệm tự tìm ra an lạcgiải thoát cho mình. Chúng ta không thể nói rằng một số quyền năng khác như Thượng đế là có trách nhiệm trong việc này – nếu chúng ta nói vậy thì chúng ta yếu đuối và không gánh trách nhiệm trong những hành động của về thân, khẩu và tâm của chính mình. Các Phật tử hiểu rằng họ tự chịu trách nhiệm cho mọi việc họ làm: cho dù hành động của họ là tích cực hay tiêu cực đều nằm trong chính tầm tay của họ. Vì vậy, mặc dù chúng ta có thể thấy chính mình trong môi trường tôn giáo – ở Ấn Độ, Tây Tạng hoặc thậm chí ở phương Tây – nhưng trở thành mộ đạo lại là một việc khác.

Các mặt ngoài của văn hóa không chỉ ra được sự hiện diện của Pháp. Pháp là điều dẫn dắt chúng ta vượt qua ảo tưởng, vượt qua bản ngã, vượt ra ngoài những vấn đề thông thường của con người. Nếu chúng ta dùng Pháp cho những mục đích như vậy thì chúng ta có thể nói “Tôi đang thực hành Pháp”, nhưng nếu chúng ta không làm thế, cho dù trì tụng những minh chú mạnh mẽ nhất cũng chỉ có chút ít lợi ích.

Một trong những giáo lý nền tảng nhất của đạo Phậttừ bỏ sinh tử luân hồi. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không nên uống nước khi khát. Nó có nghĩa là chúng ta phải hiểu sinh tử luân hồi đến mức ngay cả khi chúng ta bị vướng trong hoàn cảnh sinh tử luân hồi vẫn không nảy sinh phản ứng nghiệp nào. Áp dụng pháp huệ và thiện xảo là sự từ bỏ thực sự; chừng nào mà chúng ta còn chấp thủthù hằn trong tâm thì chúng ta không từ bỏ được sinh tử luân hồi.  

Bạn có thể thay quần áo và cạo đầu, nhưng khi bạn hỏi chính mình “Tôi thực sự đã từ bỏ cái gì?” bạn có thể thấy rằng tâm mình giống hệt như trước khi bạn chuyển hóa bên ngoài – bạn không có dừng các vấn đề của mình lại.

Đó là lý do tại sao chúng ta gọi sinh tử luân hồi là một vòng tròn; sự hiện hữu lòng vòng. Chúng ta làm các việc – chúng ta thay đổi, đổi thay, thay đổi nữa, rồi lại đổi thay – chúng ta tận hưởng điều mới lạ của từng thay đổi, nhưng thực tế, toàn bộ những điều chúng ta đang làm là tạo thêm nghiệp. Mỗi lần chúng ta làm điều gì đó, đều có phản ứng làm cho sự ràng buộc của chúng ta vào sanh tử luân hồi còn chặt hơn trước kia. Đó là luân hồi. Để nới lỏng sự siết chặt này, chúng ta cần trí huệ để soi sáng bóng tối của vô minh. Chỉ nghĩ “Mình là Phật tử; Đức Phật sẽ chăm sóc mình”; “Mình là người Cơ đốc giáo; Chúa sẽ chăm sóc mình” là không đủ. Niềm tin không đủ; chúng ta phải hiểu biết về thực tại của chính tâm mình.

Cho nên, Đức Phật đã dạy nhiều kỹ thuật thiền định để đánh thức chúng ta khỏi vô minh. Trước tiên, chúng ta phải hiểu những nhu cầu của mình với tư cách là một cá thể; theo các giáo lý của Đức Phật, mỗi người chúng ta đều có nhu cầu khác nhau. Thông thường chúng ta làm ngơ điều này và chỉ thừa nhận bất cứ điều gì đến mà không phân biệt sáng suốt. Kết quả là rốt cuộc chúng ta rơi vào tình huống không thể thoát ra được. Đó là sinh tử luân hồi.

 

HIỂU BIẾT CHÍNH MÌNH

Hơn nữa, điều quan trọng là chúng ta nhận biết rằng dù là ngay bây giờ một số thói quenthái độ của chúng ta không đúng, nhưng có thể thay đổi và chuyển hóa chúng. Chấp thủ vào thường hằng làm cho chúng ta nghĩ rằng mình không thay đổi. Lối tư duy tiêu cực này rất mạnh và ngăn chặn chúng ta khỏi tiến triển hoặc hành động theo cách của Pháp. Để giúp chúng ta vượt qua những quan niệm sai lầm của mình, Đức Phật đã giảng dạy tứ diệu đế[1]. Vì đặc tính đầu tiên của tứ diệu đế là khổ đau, nên Ngài đã giảng vô thường.

Điều vô cùng quan trọng là hiểu được vô thường. Khi chúng ta hiểu bản tánh vô thường của mọi sự vật, sự đổi thay không ngừng của chúng, thì chúng ta tự cho mình thời giankhông gian để chấp nhận bất cứ tình huống nào xảy đến. Về sau, dù là chúng ta ở trong trạng thái khổ đau, chúng ta có thể tự chăm sóc mình; chúng ta có thể nhìn vào khổ đau mà không buồn giận. Nếu không thì tâm buồn giận hoặc tâm tội lỗi của chúng ta sẽ ngăn chặn chúng ta khỏi tỉnh thức từ mê lầm, thấy được tánh sáng của bản thân mình.

Tánh sáng luôn luôn tồn tại bên trong chúng ta. Bản tánh của thức của chúng tatrong sáng. Vấn đề đơn thuần là thấy nó. Nếu bạn luôn cảm thấy ác ý, tiêu cựcvô vọng, như thể bạn là một ai đó không bao giờ có thể nhận ra an lạcgiải thoát từ bên trong, thì bạn đang phản ứng với một tâm mê mờ, tiêu cực, một quan niệm cố chấp. Khi bạn đang nghĩ vượt xa thực tại, vượt xa bản tánh của hiện tượng; bạn không đang tiếp xúc với thực tại. Bạn phải diệt tận gốc những định kiến như vậy trước khi bạn có thể trưởng dưỡng sự yên tĩnh và an lạc, trước khi trí tuệ của bạn có thể tiếp xúc với thực tại.

Hãy kiểm tra ngay bây giờ. Hỏi chính mình “Tôi là gì?” “Tôi là ai?” Ngay cả trên mức độ tương đối, khi bạn hỏi chính mình điều này bạn thấy rằng mình đang giữ quan niệm thường hằng về cái ngã của mình trong ngày hôm qua, ngày hôm kia, tuần trước, tháng trước, năm trước… Tư tưởng bản ngã này không đúng. Đó là một định kiến phải được phá bỏ và công nhậnvô lý. Rồi bạn có thể hiểu khả năng của tánh bất thối chuyển, sự phát triển vô tận và sự tăng trưởng tâm linh.

Vẻ đẹp của con người là bạn có thể phát triển liên tục các phẩm tánh bên trong như là an lạc, năng lượng của kinh nghiệm giác ngộcực lạccuối cùngchuyển hoá tâm phân biệt của bạn. Khi bạn đi đến hiểu biết vẻ đẹp bên trong này, bạn sẽ ngừng nắm giữ những đối tượng bên ngoài, điều không bao có thể mang lại sự thỏa mãn vĩnh viễn. Đây là dấu hiệu quan trọng cho tiến bộ tâm linh. Bạn không thể đồng thời vừa mộ đạo vừa cố nắm lấy của cải vật chất; hai thứ xung khắc nhau.

Chúng ta thấy con người càng có nhiều vật sở hữu thì càng ngày càng mơ hồbất như ý cho đến cuối cùng phạm vào hành động tự sát. Đôi khi những người nghèo không hiểu điều này; họ nghĩ rằng người giàu có vật chất đều phải hạnh phúc. Họ đâu có hạnh phúc. Họ bất mãn, rối loạn cảm xúc, mê lầm và đắm chìm trong khổ đau. Tỷ lệ tự tử ở những xã hội thịnh vượng cao hơn nhiều so với các xã hội chậm phát triển về kinh tế. Đây không phải là triết lý Pháp – đây là thực tại ngày nay, tình trạng của thế kỷ thứ hai mươi của chúng ta; nó đang xảy ra ngay bây giờ. Tôi không đề nghị các bạn từ bỏ tiện nghi vật chất; Đức Phật chưa bao giờ nói rằng chúng ta phải từ bỏ những sự vui thú của mình. Đúng hơn là Ngài giảng dạy rằng chúng ta nên tránh làm cho chính mình mê lầm bằng cách cố nắm lấy những khoái lạc thế gian.

Thái độ tiềm ẩn buộc chúng ta theo đuổi sau những đối tượng không đáng là ảo tưởng làm cho chúng ta nghĩ “Đối tượng này sẽ làm cho tôi hài lòng; không có nó, cuộc đời sẽ vô vọng”. Những định kiến này làm cho chúng không đủ khả năng đối phó với những hoàn cảnh mới chắc chắn phát sinh từng ngày. Chúng ta mong đợi mọi việc xảy ra theo một cách nhất định và khi chúng không xảy đến, chúng ta không thể đương đầu với chúng một cách đúng đắn. Thay vì giải quyết hiệu quả những hoàn cảnh bất ngờ, chúng ta lại trở nên căng thẳng, nản lòng và rối loạn tâm lý.

 

PHÁT TRIỂN KINH NGHIỆM PHÁP CỦA CHÚNG TA

Hầu hết chúng ta đều không ổn định cảm xúc, lúc lên, lúc xuống. Khi cuộc sống diễn ra thuận lợi, chúng ta đeo vào bộ mặt rất là tâm linh , nhưng khi mọi việc hóa thành bất lợi, chúng ta đánh mất nó hoàn toàn. Điều này cho thấy rằng chúng ta không có niềm tin bên trong, rằng hiểu biết của chúng ta về Pháp là rất hạn chế và không kiên định

Người ta nói “Tôi thực hành Pháp trong nhiều năm nhưng vẫn còn có tất cả những vấn đề này. Tôi không nghĩ Phật giáo giúp được”. Câu hỏi của tôi dành cho họ là “Bạn đã phát triển định nhất tâm hay tuệ thấu suốt chưa?” Đó là vấn đề. Chỉ đơn giản nói “Ồ, dạ đúng, tôi hiểu; tôi cầu nguyện mỗi ngày; tôi là người tốt” là không đủ. Pháp là cách sống tổng thể. Không chỉ dành cho bữa điểm tâm, những ngày Chủ nhật hay đi chùa. Nếu bạn quy thuận và làm chủ bản thân trong chùa nhưng hung hăng và mất kiểm soát  ở ngoài chùa thì sự hiểu biết của bạn về Pháp không liên tục và cũng không bền vững.

Bạn có hài lòng với trạng thái tâm hiện tại của bạn không? Chắc là không, và đó là lý do tại sao bạn cần phải thiền định, tại sao bạn cần Pháp. Của cải thế gian không mang lại cho bạn sự thỏa mãn; bạn không thể để cho hạnh phúc của mình phụ thuộc vào những đối tượng tạm thời.

Khi chúng tôi, những người tị nạn, trốn khỏi Tây Tạng, chúng tôi bỏ lại sau lưng môi trường tươi đẹp và cách sống của chúng tôi. Nếu tâm tôi cứ đặt lòng tin rằng hạnh phúc và niềm vui của tôi chỉ có ở quê, nơi tôi sinh ra thì tôi sẽ không bao giờ biết hạnh phúcẤn Độ. Tôi sẽ nghĩ “Ở đây không có núi tuyết; tôi không thể nào vui sướng”. Thái độ tinh thầnvấn đề chính; những vấn đề vật chất là thứ yếu. Vì thế, hãy tránh nắm lấy các đối tượng vật chất và thay vào đó, hãy tìm kiếm sự hiểu biết bền vững về bản tánh tối thượng của tâm.

 

PHÁT TRIỂN ĐỊNH VÀ TUỆ

Thực hành Pháp không phụ thuộc vào các điều kiện văn hóa. Cho dù chúng ta đi lại bằng xe lửa, máy bay hay xe hơi thì chúng ta vẫn có thể thực hành Pháp. Tuy nhiên, để diệt trừ hoàn toàn gốc rễ của tâm phân biệt thì hiểu biết một phần về thực tại của chính tâm mình là không đủ. Thực hành Pháp đòi hỏi phải nỗ lực liên tục, bền vững; chỉ vài hiểu biết bất chợt là không đủ. Để hiểu thấu trọn vẹn thực tại tối thượng của chính tâm mình, chúng ta phải phát triển định nhất tâm(thiền chỉ). Khi chúng ta thực hiện như vậy, sự hiểu biết của chúng ta sẽ liên tụcbất hoại.

          Những giáo lý của Đức Phật về định nhất tâmvô cùng quan trọng bởi vì chúng cho chúng ta thấy làm sao để chuyển hoá những quan niệm thế gian. Tuy nhiên, chỉ riêng định nhất tâm là không đủ. Chúng ta phải kết hợp định với tuệ thấu suốt. Sự khác biệt giữa hai điều đó là gì? Trước tiên chúng ta phát triển định nhất tâm, điều này dẫn dắt chúng ta vượt qua những vấn đề cảm xúc trần tục và làm cho chúng ta đạt mức độ hài lòng cao hơn. Nhưng một số bóng tối nào đó vẫn còn trong tâm chúng ta. Để đạt tới những chiều sâu của thức của con người, chúng ta còn phải trau dồi tuệ thấu suốt, đó là điều duy nhất có thể dẫn dắt chúng ta hoàn toàn vượt xa tri kiến phân biệt của mọi hiện hữu. Theo góc nhìn của Phật giáo, cách nghĩ phân biệt là thật sự mâu thuẫn. Thiền định có thể mang lại cho chúng ta một mức độ an lạc nào đó, nhưng nếu vẫn giữ nguyên tri kiến phân biệt thì chúng ta vẫn có xung đột trong tâm của mình.

Đối tượng của thiền tuệ (thiền quán), trạng thái của tánh Không, là chứng ngộ tánh bất nhị, ở đó, sự lóe sáng của các đối tượng giác quan (trần) và các hình ảnh tan biến, chúng ta cảm thấy sự hợp nhất trọn vẹn của thực tại tuyệt đối. Có sự khác biệt giữa kinh nghiệm của tánh Không và triết lý của nó. Nói theo triết học, các đối tượng giác quan hiện hữu, các niềm vui giác quan hiện hữu và có mối liên hệ giữa các giác quanthế giới bên ngoài. Nhưng trong bản thân kinh nghiệm, không có tánh giác phân biệt, không có tri giác của thế giới giác quan, và không có cảm giác xung đột làm kích động tâm. Thông thường, bất cứ khi nào chúng ta nhận biết các đối tượng trong thế giới giác quan, chúng ta đều thấy hai điều: chúng ta nhận biết bản thân sự vật và ngay lập tức so sánh nó với thứ khác. Xã hội được xây dựng trên tâm thức phân biệt. Cuối cùng nó đi tới: nếu hàng xóm sát nhà tôi mua xe hơi, tôi cũng muốn có một chiếc. Hai nguồn lực cùng hoạt động, nguồn lực này trở thành lý do cho nguồn lực kia. 

          Từ góc nhìn Phật giáo, bất cứ thông tin nào được tiếp nhận qua năm thức giác quan thì luôn luôn bị bóp méo bởi chấp thủ phân biệt. Giống như ảo thị. Nó ghi nhận vào trong tâm thức của chúng tachúng ta tin rằng cái  mình đang thấy là thật. Thực tế, đó là sự bóp méo không thật và nó sinh ra mọi ảo tưởng khác.

          Bởi vậy, thái độ Phật giáo đối với dữ liệu tiếp nhận thông qua năm thức giác quan là một điều không đáng tin. Bạn không thể dựa vào phán xét tốt và xấu đến từ các giác quan của mình – chúng luôn cho bạn cảm giác phân biệt, méo mó. Tốt hơn là bạn nên khảo sát với đôi mắt khép lại nha!

          Dù sao đi nữa, hãy luôn xem xét và phản biện những thông tin đến từ các giác quan của bạn. Đó là cách cuối cùng để chuyển hoá tánh bình phàm, các hành động tạo nghiệp và những phản ứng quen thuộc của sự bất như ý.

 

Hỏi: Ngài nói rằng chúng ta có thể nhận biết hoàn toàn tánh Không?

Lama: Nhất định rồi! Bằng cách nào? Bằng cách xem xét bản tánh tâm của chính bạn, tự hỏi mình nhiều lần “Tôi là gì?” “Tôi là ai?” Cuối cùng bạn sẽ nhận ra sự dối lừa của mô hình bản ngã theo bản năng và nó tự phản chiếu trong cuộc đời của bạn như thế nào, khiến bạn hiểu sai mỗi cảm giác mà bạn có. Khi bạn phát hiện tri kiến sai lầm này, bạn sắp hiểu được tánh Không. Cho đến khi bạn khám phá chấp ngã hoạt động bên trong bạn như thế nào, thì chứng ngộ tánh Không còn xa mới được.

 

Hỏi: Quan hệ giữa tánh Không và thức là gì?

Lama: Thức không phải là tánh Không. Nhưng khi bạn hiểu bản tánh của thức, tánh sáng của tâm, bạn có một trạng thái rất giống với trạng thái tri giác về tánh Không. Cho nên, trong truyền thống Tây Tạng của Phật giáo Đại thừa, chúng ta nhấn mạnh việc quán chiếu thức của chính bạn như là dẫn nhập đến trạng thái của tánh Không tuyệt đối.

 

Hỏi: Ngài đã nói về thức giác quan tan biến trong trạng thái của tánh Không. Làm thế nào chúng ta có thể nhận biết thế giới mà không có năm thức giác quan?

Lama: Được rồi, có cả thế giới tuyệt đốitương đối. Lúc bắt đầu, bạn thiền định trên bản tánh của thế giới tương đối và điều này sau đó trở thành cách thức để qua đó khám phá cái tuyệt đối. Hãy nhìn vào thế giới giác quan nhưng đừng để nó mê hoặc. Phân tích liên tục, luôn luôn kiểm tra xem tri giác của bạn có rõ ràngthoát khỏi sự phóng đại dựa trên bản ngã không. Thực tại tương đối không phải là vấn đề; vấn đề nằm trong tri giác của bạn về các sự vật, bạn phóng đại và bóp méo những phương diện khác nhau của một đối tượng. Do đó, bạn phải liên tục xem xét cảm xúc của mình. Bạn không thể chỉ nói đơn giản “Đúng rồi bởi vì tôi đã thấy nó và sai rồi vì tôi không thấy nó”. Bạn phải đi sâu xa hơn thế.

 

Hỏi: Khi Ngài đặt câu hỏi cho tâm của mình, Ngài đặt câu hỏi đó cho ai?

Lama: Khi bạn đặt câu hỏi cho chính cái thức của mình, bạn đặt câu hỏi cho những quan niệm sai của mình, niềm tin của mình vào những thực thể không hiện hữu. Khi bạn nhìn thấy một cái ly đỏ, bạn nhận ra nó như là một ly đỏ, nhưng bên trong bạn nổi lên những nghi vấn: “Có thể nó đỏ, có thể nó trắng”. Bất cứ khi nào bạn hỏi, các câu trả lời sẽ đến. Thông thường chúng ta chỉ thừa nhận bất cứ thứ gì xảy ra mà không có thắc mắc. Kết quả, chúng ta bị mê mờ và nhiễm ô. Hỏi là để tìm tòi và câu trả lời nằm bên trong bạn. Chúng ta cảm thấy rằng thức của mình nhỏ bé, nhưng nó giống như một đại dương to lớn, trong đó có thể tìm thấy mọi thứ. Khi tôi nói bạn có thể nghĩ “Có thể vị Lạt ma này sẽ cho tôi một vài chứng ngộ”, nhưng không có chứng ngộ nào để cho. Nói đến Pháp là ném những công tắc ở đây đó, mong thức tỉnh con người. Niềm tin vào Đức Phật, thần Krishna hoặc bất cứ người nào là không đủ; bạn phải gánh trách nhiệm cho chính thân, khẩu và tâm của mình. Tất cả chúng ta đều có một trình độ trí huệ nhất định; điều này phải được trau dồi. Mọi tôn giáo đều sử dụng chuông – bao gồm Phật giáoẤn Độ giáo. Chuông tượng trưng cho trí huệ. Ngay lúc này, tiếng chuông trí huệ đang nằm bất động bên trong chúng ta. Tiếng chuông linh thiêng là lời nhắc nhở: “Hãy dùng trí huệ của bạn!”

 

Hỏi: Phải thừa nhận, chúng ta không nên quá thụ động trong các trách nhiệm của mình, nhưng đôi khi việc gánh vác trọng trách nghiệp dường như làm tăng lên ý thức bản ngã của chúng ta. Hình như có một sự lựa chọn giữa trách nhiệmnăng lực bên ngoài chứ không phải trí huệ thụ động bên trong.

Lama: Về mặt kiến thức, chúng ta hiểu rằng có Phật, Pháp và Tăng. Điều này là chắc chắn. Phật OK, Pháp OK; Tăng OK. Nhưng Đức Phật đối với tôi là gì? Khi tôi phát triển toàn diện chính mình, tôi trở thành phật; đó là vị phật của tôi. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là phật của Ngài ấy, không phải của tôi. Ngài đã nhập Niết Bàn. Sự tỉnh thức toàn diện của tôi là vị phật của tôi. Bạn làm thế nào để thức tỉnh vị phật của chính mình? Bước đầu tiên là đơn giản nhận thức các hành vi của thân, khẩu và tâm của bạn. Dĩ nhiên, bạn không nên ích kỷ về nó, nghĩ “Phật và Pháp OK, nhưng tôi không quan tâm về Phật, Pháp – tôi có trách nhiệm”. Và bạn cũng không nên kiêu hãnh: “Tôi là thiền giả”. Điểm chung là diệt trừ bản ngã – đừng lo lắng liệu bạn có là thiền giả hay không. Chỉ để tâm vào đúng đường, đừng trí thức hóa, và buông bỏ. Câu hỏi của bạn rất hay: chúng ta phải biết cách đối phó với cái tâm đó. Cám ơn bạn.  

 

Hỏi: Ngài nói rằng tỷ lệ tự tử ở phương Tây cao hơn ở phương Đông. Nhưng cũng đúng là ở phương Đông thường chết vì đói hơn phương Tây. Hình như bản năng của người phương Đông là từ bỏ trong khi chủ nghĩa vật chất xem ralẽ tự nhiên đối với người phương Tây. Vì vậy tôi có thể đề nghị một cách hoài nghi rằng sự từ bỏ đã dẫn phương Đông đến nghèo đói trong khi chủ nghĩa vật chất đã đưa phương Tây đến thịnh vượng không?

Lama: Đó cũng là một câu hỏi rất hay. Nhưng hãy nhớ những gì tôi đã nói trước đây: từ bỏ cái ly này không có nghĩa là ném nó đi, đập vỡ nó hay đưa nó cho ai đó. Bạn có thể ăn cơm và món Dhal (súp đậu của Ấn Độ) với tâm buông bỏ. Điều vô cùng quan trọng là bạn phải biết điều đó.

          Đúng là hầu hết người phương Đông, về phương diện văn hóa, đều chịu ảnh hưởng bởi các học thuyết tôn giáo. Ví dụ, ngay cả khi chúng tôi ba hay bốn tuổi, chúng tôi cũng thừa nhận luật nhân quả. Có nghĩa là, hầu hết người phương Đông cũng hiểu sai nghiệp. Ai đó nghĩ “Ồ! Tôi là người nghèo, cha tôi làm quét dọn – tôi cũng phải làm quét dọn thôi”. “Tại sao?” “Bởi vì đó là nghiệp của tôi – nó phải theo như vậy đó”.

          Đây là một quan niệm sai hoàn toàn và không dính dáng gì với những giáo lý của Ấn Độ giáo hay Phật giáo cả; đó là một quan niệm cố chấp hoàn toàn ngược lại với bản tánh của thực tại. Chúng ta nên hiểu “Tôi là con ngườibản tánh của tôi là vô thường. Bây giờ có lẽ tôi không vui, nhưng tôi dễ thay đổi – tôi có thể tự phát triển bên trong tâm mình an lạc vĩnh cửu”. Đây là thái độchúng ta nên có.

          Những thay đổi không thể tin được mà chúng ta nhìn thấy trong thế giới hôm nay đều bắt nguồn từ tâm của con người, không phải từ bản thân thế giới; sự sung túc thiên về vật chất phương Tây bắt nguồn từ tâm phương Tây. Nếu chúng tôi, người phương Đông, muốn chất lượng đời sống của chúng tôi bằng với phương Tây, chúng tôi có thể làm điều đó. Tuy nhiên, đồng thời, chúng tôi cũng có thể có tâm từ bỏ đối với sinh tử luân hồi.     

          Để phát triển tâm từ bỏ, bạn phải hiểu giá trị thực sự của tài sản vật chất và mối quan hệ của chúng với hạnh phúc. Hầu hết người phương Tây đều thổi phồng giá trị của cải vật chất một cách thô thiển. Họ bị tấn công tới tấp bằng các quảng cáo: “Đối tượng này làm cho bạn hài lòng”; “Điều đó làm cho bạn hài lòng”; “Đối tượng khác làm cho bạn hài lòng”. Vì vậy, về mặt tâm lý, họ đoan chắc rằng, “Tôi phải mua cái này, tôi phải mua cái kia, nếu không, tôi không vui được”. Xác tín này đưa họ đến chủ nghĩa vật chất cực đoan – và cuối cùngtự sát. Cũng vậy, người phương Đông hiểu sai các giáo lý của tôn giáo và rơi vào tình trạng thụ động, lười biếng và lãnh đạm cực đoan: “Nghiệp – đó là nghiệp của tôi mà”.

 

Hỏi: Sự khác biệt giữa giải thoát (moksha) và niết bàn (nirvana) là gì?

Lama: Có nhiều cấp độ của moksha hay giải thoát. Một trong những cấp độ này là niết bàn, vượt qua bản ngã và được ban cho bình ancực lạc vĩnh hằng. Cao hơn niết bàngiác ngộ, đôi khi được gọi là “niết bàn tịch tịnh” và là thành quả của bồ đề tâm, quyết tâm đạt thành giác ngộ cho mục tiêu duy nhất là khai sáng vô lượng chúng sanh. Bạn có thể không còn hứng thú trong sinh tử luân hồi nữa, có thể trải qua rèn luyện tâm linh và đạt tới niết bàn, nhưng bạn vẫn chưa phát triển bồ đề tâmchứng đắc toàn giác.

 

Hỏi: Ngài nói về bất nhị. Liệu yêu và hận có còn hiện hữu trong trạng thái đó không, thưa Ngài?

Lama: Bản thân kinh nghiệm bất nhị nằm trong bản tánh của tình thương yêu. Cấp độ cảm xúc thương yêu thì thấp hơn khi đang trong sự hoà tan của thiền định về bất nhị nhưng bản tánh của nó là hiện hữu một cách căn bản. Hầu hết tình thương yêu của con ngườithiên lệchphân biệt. Tình thương yêu có đặc tínhbất nhị thì cảm thấy không còn thiên vị nữa. Lam-rim (Giai trình của đạo giải thoát) dạy chúng ta thiền định về từng chúng sanh riêng rẽ – bao gồm thú vật, chim, cá và côn trùng – đã nhiều lần là mẹ của chúng ta trong vô lượng tiền kiếp như thế nào. Hơn nữa, không có ngoại lệ, mọi loài đều mong muốn hạnh phúctìm cách tránh khổ đau. Nếu chúng ta thiền địnhmở rộng các đối tượng tri thức của mình, chúng ta sẽ biết đến bản tánh của các chúng sanh khác và tình thương yêu của chúng ta sẽ thành bao la.   

---o0o---

Trích từ “NHỮNG GIÁO LÝ TỪ TÂY TẠNG - Hướng dẫn của những Lạt Ma vĩ đại”

Nicholas Ribush biên tập bản tiếng Anh. NXB. Lama Yeshe Wisdom Archive, 2005.

Minh Hằng dịch sang tiếng Việt, 2021.

 



[1] Xem lời dạy của HH Dalai Lama về Tứ Diệu Đế. (Trang ….)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26381)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12744)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29509)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27709)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25904)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15012)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16231)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22720)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14570)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12618)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18899)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14726)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43853)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47480)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13650)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14568)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12523)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40384)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14408)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14129)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39675)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13841)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37290)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40023)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13776)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37205)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11740)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22522)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12486)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12546)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13011)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14814)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12427)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11936)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11919)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12361)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30646)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31862)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35371)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27777)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11452)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31689)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27054)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24109)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30846)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27070)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28081)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23228)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23552)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21525)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26235)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13006)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21859)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14093)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37976)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32071)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28526)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19588)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7296)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant