Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Vắn Tắt Jedrung Rinpoche Thứ Bảy – Jampa Jungne

04 Tháng Mười 202119:49(Xem: 3806)
Tiểu Sử Vắn Tắt Jedrung Rinpoche Thứ Bảy – Jampa Jungne
Tiểu Sử Vắn Tắt Jedrung Rinpoche Thứ Bảy – Jampa Jungne

Ron Garry[1]
Pema Jyana


Tiểu Sử Vắn Tắt Jedrung Rinpoche Thứ Bảy

Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham, các thành viên của tộc Gar Ratsang; tộc này tuyên bốhậu duệ của thượng thư Gar Tongtsen của Vua Songtsen Gampo thế kỷ bảy. Ngài được xác nhận là vị tái sinh thứ bảy trong dòng Riwoche Jedrung, một trong hai dòng căn bản của các Lama tái sinh tại Riwoche. Ngài cũng được cho là một hóa hiện của Đức Langdro Konchok Jungne[2], một trong hai mươi lăm đệ tử của Đức Liên Hoa Sinh. Em trai của Ngài, Gara Lama Sonam Rabten, sinh năm 1865.

Ngài Jampa Jungne đã thọ nhận giáo lý từ nhiều vị trong số những đạo sưđại thời ấy, bao gồm cả Đức Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892)[3] và Đức Jamgon Kongtrul Lodro Thaye (1813-1899)[4] và Đức Karmapa thứ Mười lăm – Khakhyab Dorje (1870/1-1921/2). Ngài cũng nghiên cứu với đệ tử của Đức Khyentse Wangpo – Khenchen Lhagyal.

Là vị đứng đầu của Tu viện Riwoche, Ngài Jampa Jungne về cơ bản nắm giữ giáo lý Taklung Kagyu, nhưng Ngài cũng là một đạo sư của truyền thống Nyingma và là một vị phát lộ kho tàng thành tựu. Ngài cũng là một vị hành nghề y rất tinh thông. Khi Ngài trở thành viện trưởng của Riwoche, Ngài bổ nhiệm em trai, Gara Lama, chịu trách nhiệm các vấn đề thế tục về đất đại mà Tu viện kiểm soát.

Đầu thế kỷ hai mươi, khi hàng nghìn người rời bỏ Kham trước những hành động tàn bạo của tướng Zhao Erfeng (1845-1911) nhà Thanh và được vị cai quản Pome – Kanam Depa thỉnh mời, Ngài Jampa Jungne đã dẫn khoảng 2000 môn đồ đi tìm kiếm cõi ẩn giấu huyền bí Pemako. Ngài ban đầu định cư ở Chimdo, một vùng thuộc Powe, nằm về phía Tây Tạng của dãy Himalaya, sau đó chuyển đến Mipi, phía Nam của các ngọn núi, nơi Ngài xây dựng một ngôi chùa gọi là Karmo Ling. Ở đó, đoàn người gặp phải những mối liên hệ khó khăn với dân địa phương, người Lopa, và nhiều người quay trở về Kham. Tuy nhiên, Ngài Jampa Jungne ở lại cùng với nhiều đệ tử và chính ở đó, Ngài gặp Đức Dudjom Jigdral Yeshe Dorje[5], vị đã trở thành một trong những đệ tử thân thiết nhất của Ngài.

Với năng lực của một vị phát lộ kho tàng, Ngài Jampa Jungne đã phát lộ nghi quỹ trường thọ gọi là Giọt Tâm Bí Mật Của Đức Liên Hoa (Pema Sangtik) và với đệ tử của Ngài – Kangyur Rinpoche Longchen Yeshe Dorje[6], Đạo Sư Phổ Ba – Phạm Vi Tâm Giác Ngộ. Các trước tác được tuyển tập của Ngài tạo thành mười ba quyển, bao gồm cả những kho tàng ẩn giấu. Ngài cũng duy trì truyền thống kho tàng của Pema Lingpa.

Khi Pome bị xâm chiếm bởi Quốc Dân Đảng vào thập niên thứ hai của thế kỷ hai mươi, Ngài Jampa Jungne trở về Kham để xây dựng lại Riwoche. Theo một số nguồn tài liệu, Đức Dalai Lama thứ Mười ba – Thubten Gyatso (1876-1933) đã yêu cầu Ngài Jampa Jungne chuyển đến Taklung, nơi Ngài dành phần còn lại của cuộc đời để giảng dạy vô số học trò. Tuy nhiên, nhiều khả năng là Ngài Jampa Jungne bị đưa đến Taklung dưới dạng quản thúc tại gia, sau khi sai lầm trong chiến tranh Tạng-Trung về vùng Chamdo vào năm 1917.

Ngài Jampa Jungne có một con gái – Yangchen Lhamo (1907-khoảng 1973), vị được Ngài rèn luyện về y học, cũng như đọc, viết, ngữ pháp và thi ca. Con gái Ngài bắt đầu hành nghề y năm mười ba tuổi và tiếp tục trở thành một thầy thuốc xuất chúng tại Lhasa Mentsikhang.

Ngài Jampa Jungne viên tịch năm 1922 và dòng tái sinh chia tách, một vị Jedrung được công nhận tại Riwoche và vị kia ở Pemako.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Riwoche-Jedrung-07-Jampa-Jungne/10315.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Ron Garry có bằng tiến sĩ về Phật giáo Tây Tạngthạc sĩ về tâm lý trị liệu tổng hợp.

[2] Theo Rigpawiki, Langdro Konchok Jungne, cũng được biết đến là Langdro Lotsawa – một trong hai mươi lăm đệ tử của Đức Liên Hoa Sinh. Ngài đến từ vùng Langdro ở Tsang và là một thượng thư trong triều đình của Vua Trisong Detsen. Trong các hóa hiện chính yếu của Ngài có những Terton vĩ đại – Ratna Lingpa cũng như Dzogchen [Rinpoche] Pema Rigdzin và Đức Jamyang Khyentse Wangpo, vị được cho là hóa hiện hoạt động.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22045)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27393)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37822)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20654)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14475)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19541)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14399)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20874)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28566)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27137)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21869)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21360)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26137)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21537)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23322)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23111)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19767)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22845)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21060)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19911)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15366)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 25988)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22477)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22786)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30408)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33134)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35462)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 26985)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17684)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24286)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14612)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant