Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo (1892-1940)

24 Tháng Mười 202120:05(Xem: 1535)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo (1892-1940)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo (1892-1940)

Sarah Jacoby
Pema Jyana

hoa sen 1

Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa. Cha của Bà, Lhase Jampa Gonpo, xuất thân từ hoàng gia Mông Cổ. Mẹ của Bà, Tsering Chodzom, đến từ tộc Nub quyền uy của Tây Tạng.

Từ thuở nhỏ, Sera Khandro đã yêu thích tâm linh; thay vì chơi đùa với những đứa bé khác, Bà tụng Chân ngôn sáu âm và khuyến khích những đứa trẻ khác thực hành tâm linh. Bà thuật lại rằng Bà đã phát lộ kho tàng đầu tiên năm lên bảy, kéo ra con dao nghi lễ một phần từ núi đá tại Drak Yerpa gần Lhasa. Trong tiểu sử, Bà kể rằng trong suốt cuộc đời, Bà có nhiều kinh nghiệm hư huyễn về việc trao đổi với chư Không Hành Nữthành tựu giảdu hành đến nhiều cõi Phật phi phàm. (Tất cả tuổi từ tiểu sử của Bà đã được điều chỉnh cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.)

Bất chấp thiên hướng của Sera Khandro về một cuộc đời tâm linh, cha Bà khăng khăng rằng Bà phải được dạy bằng tiếng Trung học thuật để tiếp bước ông ấy vào cuộc đời của một vị ưu tú về chính trị của Lhasa. Khi Bà chỉ mới mười tuổi, cha Bà sắp xếp một cuộc hôn nhân với con trai của một lãnh đạo Trung Quốc – cuộc hôn nhân mà cô gái hướng về tâm linh phản đối. Nản lòng trước viễn cảnh mất đi cơ hội thực hành Giáo Pháp, Sera Khandro thử tự tử bằng cách uống hỗn hợp thuốc phiện và rượu.

Bị tổn thương bởi điều này và trước sự ra đi của mẹ thân yêu, mười hai tuổi, Sera Khandro có một linh kiến về Kim Cương Hợi Mẫu (Vajravarahi), điều thay đổi cuộc đời Bà. Hợi Mẫu Kim Cương trao quyền cho Sera Khandro về hai kho tàng, điều sau này trở thành giáo lý chính yếu trong cuộc đời Bà: Kho Tàng Bí Mật Của Chư Không Hành Nữ Pháp Tính (Chonyi Khandro Sangdzod) và Tinh Túy Tâm Yếu Của Chư Không Hành Nữ (Khandro Thugthig).

Được khích lệ bởi các tiên tri từ chư Không Hành Nữ, Sera Khandro dũng cảm chạy trốn khỏi nhà và cuộc hôn nhân được sắp đặt để gia nhập nhóm hành hương Golok, không bao giờ quay trở lại Lhasa hay về thăm gia đình nữa. Từ khoảnh khắc Bà thấy Đức Drime Ozer (1881-1924), vị đạo sư của nhóm hành hương Golok, niềm tin và lòng sùng mộ lớn lao khởi lên trong Bà. Thế nhưng con đường phía trước vẫn đầy chướng ngại. Cuộc sống thượng lưu Lhasa giàu có của Sera Khandro chẳng thích hợp với địa hình khắc nghiệt và nhiệt độ dưới không dọc đường hành hương. Bà gần như chết đói và lạnh cóng trên đường đến Golok.

Khi nhóm người cuối cùng đến được Dartsang, khu trại tâm linh của Tổ Dudjom Lingpa (1835-1904), cha của Ngài Drime Ozer ở vùng đồng cỏ cao của Golok, sự hiện diện của Sera Khandro gặp phải sự thù địch đố kỵ từ Akyongza, vị phối ngẫu của Ngài Drime Ozer và Bà buộc phải sống ở nơi khác. Bà đã làm việc như một nữ đầy tớ cho một gia đình du mục trong vùng và bắt đầu các thực hành sơ khởi. Nhanh chóng, Bà nổi tiếng về sự hành trì tinh tấn, tài hùng biện và lòng sùng mộ tâm linh.

Sera Khandro sau đó trở thành vị phối ngẫu của Gara Gyalse, con trai của vị phát lộ kho tàng Gara Terton Dudul Wangchuk Lingpa (1857-1911) của Tu viện Bennak ở Golok. Họ có hai người con, một người con gái tên là Yangchen Dronma hay Choying Dronma (sinh năm 1913) và một người con trai, Rigdzin Gyurme Dorje (1919-1924), người không sống qua được tuổi ấu thơ.

Cuộc sống với Gyalse trở nên thật khó khăn với Sera Khandro; ông ấy không chấp nhận việc Sera Khandro được gọi là một vị phát lộ kho tàng và cấm Bà viết hay truyền bá các giáo lý tâm linh. Sức khỏe của Bà trở nên tồi tệ hơn khi Bà ngày càng bị đau đớn bởi chứng viêm khớp ở chân. Cùng lúc, lòng sùng mộ của Bà với Đức Drime Ozer ngày càng mạnh mẽ. Những nhân tố này góp phần cho quyết định của Gyalse: gửi Bà trở về sống với Ngài Drime Ozer khi Bà hai mươi chín tuổi. Sera Khandro tin rằng chính sự đoàn tụ với Ngài Drime Ozer đã khiến Bà khỏi bệnh. Cùng nhau, họ phát lộ nhiều kho tàng. Sau khi Ngài Drime Ozer qua đời chỉ ba năm sau đó, đệ tử của Ngài – Sotrul Natsok Rangdrol (vị qua đời năm 1935) đã mời Sera Khandro đến sống tại Tu viện của Ngài ở Golok – Tu viện Sera, do đó Bà mang danh hiệu theo địa điểm này.

Sera Khandro du hành khắp Golok cùng với các thị giả, tu sĩ Tubzang và vị ghi chép Tsultrim Dorje. Các giáo lý chính yếu của Bà là những kho tàng của Tổ Dudjom Lingpa và Ngài Drime Ozer cũng như của chính Bà. Bà qua đời tại Riwoche năm bốn mươi tám tuổi. Người ta nói rằng trước khi thân Bà được hỏa thiêu, nó tan thành ánh sáng cho đến khi chỉ còn bằng kích thước thân của một đứa bé bảy tuổi.

Các đệ tử chính yếu của Sera Khandro bao gồm Đức Adzom Drukpa thứ nhất – Pawo Dorje[2] và con trai Gyurme Dorje[3], con gái Chime Wangmo, các con trai của Dudjom Lingpa – Pema Ledrel/Drime Ozer và Dorje Dradul, vị Kathok Chaksa thứ tư – Pema Trinle Gyatso, Palyul Gochen Tulku Jigdral Chokyi Lodro, Riwoche Shabdrung Tulku Tsewang Drakpa, Abo Soge Tulku Natsok Rangdrol và Jikga Tulku từ Tu viện Sera ở Serta, Trakya Lama Sherab Ozer, Tromge Khandro Dawa Dronma, Dzogchen Khenpo Norbu Wangyal, Chatral Rinpoche Sangye Dorje (1913-2015)[4], vua và hoàng hậu của Ling, và Choying Dronma – con gái của Bà.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Sera-Khandro-Kunzang-Dekyong-Wangmo/10083.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Sarah Jacoby là Giáo Sư Trợ Lý (Assistant Professor) về Tôn giáo tại Đại Học Northwestern. Bà ấy nhận bằng tiến sĩ về các nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng tại Đại học Virginia vào năm 2007.

[2] Về Đức Adzom Drukpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a34938/tieu-su-van-tat-adzom-drukpa-rinpoche-drodul-pawo-dorje-1842-1924-.

[3] Về Ngài Gyurme Dorje, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35696/tieu-su-van-tat-duc-gyalse-gyurme-dorje-1895-.

[4] Về Chatral Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a30967/chatral-rinpoche-cuoc-doi-cua-mot-huyen-thoai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22065)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27438)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37845)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20667)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14485)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19551)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14411)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20891)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28595)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27160)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21885)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21395)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26156)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21552)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23355)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23139)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19782)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22880)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21091)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19926)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15381)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26007)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22494)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22805)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30425)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33162)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35485)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27020)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17704)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24309)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14625)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant