Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)

29 Tháng Mười 202120:00(Xem: 2458)
Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)
Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)

Holly Gayley [1]
  Pema Jyana


bo tat van thu

Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok. Cha Bà là Terton (vị phát lộ kho tàng) lỗi lạc của gia đình Apang, vị được gọi là Apang Terchen Pawo Choying Dorje (1895-1945), tức Orgyen Trinle Lingpa. Mẹ Bà, Damtsik Drolma, là con gái của một vị thủ lĩnh địa phương và được công nhậnhóa hiện về khẩu của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Vô số tiên tri liên quan đến sự chào đời của Bà Tare Lhamo được đưa ra bởi những vị lỗi lạc như Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe Dorje (1904-1987)[2]. Dựa trên những tiên tri như vậy, Bà Tare Lhamo được công nhận khi còn nhỏ là hóa hiện của hai nhân vật trong vùng thuộc thế hệ trước, một nam và một nữ, lần lượt là Tra Gelong Tsultrim Dargye (1866-1937) và Sera Khandro (1892-1940)[3], vị cũng được biết đến là Uza Khandro Dewe Dorje. Sự công nhận thứ hai là hơi lạ thường, bởi Sera Khandro vẫn chưa viên tịch cho đến hai năm sau khi Bà Tare Lhamo chào đời. Không có ghi chép nào về việc Bà Tare Lhamo thọ nhận hay trao truyền các giáo lý của những vị này, cũng như việc Bà được chính thức tấn phong là một hóa hiện của vị nào. Khi còn là một đứa bé, Bà nhận được một vài trong số những tài sản của Tra Gelong và được mời đến rèn luyện tại Tu viện của Ngài như một vị Ni. Tuy nhiên, Bà từ chối và quyết định sống như một chủ hộ và tiếp tục sống cùng gia đình. Giống như mẹ, Bà cũng được xác nhận là một hóa hiện của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Thời trẻ, Bà nghiên cứu với cha – Apang Terchen, thậm chí phát lộ một kho tàng với cha khi còn là một đứa bé. Từ Ngài, Bà thọ trao truyền cho Nyingtik Yabshi và toàn bộ các phát lộ kho tàng của Ngài trước khi Ngài viên tịch vào năm 1945, khi Bà chỉ mới chín tuổi (theo cách tính Tây Tạng, tám tuổi theo tiêu chuẩn quốc tế). Theo phong tục Nyingma phổ biến của việc trao truyền giáo lý qua gia đình, Bà Tare Lhamo cùng các anh em trai trở thành những vị nắm giữ truyền thừa của cha. Các anh em trai của Bà, tất cả đều được công nhận là những đạo sư tái sinh, là Gyurme Dorje (sinh năm 1928), Wangchen Nyima (sinh năm 1931) và Thubten Chokyi Nyima (sinh khoảng năm 1939). Ngài Wangchen Nyima tiếp nối cha, trở thành người đứng đầu của Tsimda Gompa, Tu viện mà Apang Terchen thành lập năm 1925 ở Markhok trong Hạt Padma của Golok.

Trong phần còn lại của thời trẻ và đầu tuổi trưởng thành, Bà Tare Lhamo du hành cùng mẹ – Damtsik Drolma, đến các thánh địa ở Golok và thọ nhận giáo lý từ những đạo sư lỗi lạc thời ấy. Hai vị thầy chính yếu của Bà là Dodrubchen Rinpoche thứ tư – Rigdzin Jalu Dorje (1927-1961) và Dzongter Kunzang Nyima (1904-1958), cháu nội và cũng là hóa hiện về khẩu của vị Terton lừng danh – Dudjom Lingpa (1835-1904). Từ Ngài Rigdzin Jalu Dorje, Bà thọ nhận những chỉ dẫn khẩu truyền về Nyingtik Yabshi. Từ Dzongter Kunzang Nyima, Bà thọ quán đỉnh, sự cho phépchỉ dẫn cho toàn bộ kho tàng của Ngài, cũng như của Dudjom Lingpa, và Ngài bổ nhiệm Bà là vị trông giữ kho tàng (chodak) cho pho Yeshe Tsogyal của Ngài. Từ trẻ, theo tiểu sử của Bà, Bà đã bắt đầu phát lộ các kho tàng dưới dạng những giỏ và cuộn kinh vàng.

Năm hai mươi tuổi (theo cách tính Tây Tạng), Bà gia nhập khu trại của Dzongter Kunzang Nyima ở Rizab và kết hôn với con trai của Ngài, Mingyur Dorje (1934-1959), tức Pema Osel Nyingpo. Trong khoảng thời gian ngắn bên nhau, họ có một người con trai, Wangchuk Dorje, thường được gọi là Tulku Ngaro. Trong quá trình biến đổi cộng sản ở Golok vào cuối những năm 1950, theo luật lệ của Cộng sản Trung Quốc, Tulku Milo và ba anh em trai của Bà Tare Lhamo bị giam giữ, cùng với nhiều nhân vật tôn giáo khác, nơi mà cuối cùng họ đều qua đời. Bà Tare Lhamo không bị giam cầm, có lẽ bởi giới tính, cũng như nhiều đạo sư trẻ tuổi hơn, những vị chỉ là thiếu niên khi ấy. Lúc bắt đầu Cách mạng Văn hóa (1966-76), con trai Bà qua đời vì bệnh tật và sau đấy, mẹ Bà cũng qua đời vì tuổi cao, để lại Tare Lhamo đơn độc.

Năm 1978, Bà Tare Lhamo khởi xướng một sự hợp tác với Namtrul Rinpoche Jigme Phuntsok (1944-2011), một đạo sư kém Bà sáu tuổi, vị sống ở vùng biên giới của Hạt Serta thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Sau hơn một năm trao đổi thư từ, Bà rời quê nhà Hạt Padma thuộc tỉnh Thanh Hải để đến gia nhập cùng với Namtrul Rinpoche ở Serta, nơi mà hai vị sống cùng nhau đến khi Bà qua đời vào năm 2002. Cùng nhau, họ xây dựng lại Tu viện Nyenlung ở quê nhà của Namtrul Rinpoche, cùng với Rigdzin Nyima, một đạo sư đã giữ địa điểm này như một ẩn thất và sống gần bên hai vị. Mặc dù Bà Tare Lhamo từ bỏ đặc quyền là người đứng đầu của Tsimda Gompa bằng cách rời Hạt Padma, Bà và Namtrul Rinpoche vẫn tiếp tục là những vị thầy căn bản ở đó, và Bà đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lại Tu viện.

Năm 1980, Khenpo Jigme Phuntsok (1933-2004)[4] ban cho Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche trao truyền về tuyển tập kho tàng của Apang Terchen, điều mà Bà vốn đã thọ trực tiếp từ cha khi còn là một đứa bé, và khuyến khích họ truyền bá rộng khắp. Sau đấy năm 1986, Ngài cho phép họ trở thành Terton và ban trao truyền cho tuyển tập kho tàng của Lerab Lingpa (1856-1926)[5], tiền thân của chính Ngài. Năm 1987, Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche gia nhập đoàn tùy tùng khoảng 10.000 người của Ngài trong chuyến hành hương lịch sử đến Ngũ Đài Sơn, thánh địa của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở tỉnh Sơn Tây, nơi mà hai vị đã phát lộ một nghi quỹ Diệu Âm Sarasvati.

Năm 1990, Dola Chokyi Nyima Rinpoche ban cho họ trao truyền về tuyển tập kho tàng của cha Ngài – Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe, và cho phép họ truyền bá chúng. Không lâu sau, Bà Tare Lhamo thu hút sự chú ý quốc tế khi công nhận con trai của Ngài Dola Chokyi Nyima là một trong hai vị tái sinh của Dudjom Rinpoche.

Trong suốt thập niên 80 và 90, Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche đã phát lộ các kho tàng cùng nhau và giảng dạy rộng rãi, khắp vùng Golok và hơn thế. Về sự giảng dạy, hai vị đã nắm giữ và trao truyền ba tuyển tập kho tàng chính yếu: tuyển tập kho tàng của chính hai vị trong mười hai quyển, tuyển tập của cha Bà – Apang Terchen trong mười sáu quyển, và của Đức Jigdral Yeshe Dorje. Hai vị đã tổ chức một Pháp hội thường niên tại Nyenlung mỗi mùa hè, thu hút hơn một nghìn môn đồ tham dự kể từ những năm 90, và đóng vai trò là vị quản lý cho nhiều Tu viện khác ở Golok và các vùng lân cận, giúp gây quỹ cho các dự án tái thiết, tài trợ nghi lễthiết lập thực hành nghi lễ, trong khi thường xuyên viếng thăm để giảng dạy. Hai vị cũng đặc biệt yêu thích và thúc đẩy sử thi Gesar.

Cuối năm 2000, Bà Tare Lhamo lâm bệnh và năm sau, Bà được chẩn đoán mắc một căn bệnh, điều có lẽ là ung thư thực quản. Các biện pháp khác nhau về nghi lễthực tiễn được thực hiện để cố gắng chữa lành, bao gồm cả việc dành thời gian ở các bệnh viện tại Barkham và Thành Đô. Bà qua đời vào ngày 6 tháng 3 năm 2002 ở Thành Đô và nhục thân Bà được đưa về Nyenlung không lâu sau để cử hành tang lễ thích hợp. Namtrul Rinpoche tiếp tục quản lý và phát triển cộng đồng tâm linh trong gần một thập niên cho đến khi qua đời vào ngày 7 tháng 11 năm 2011.

Truyền thừa Giáo Pháp của Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche được trao lại cho con trai của Ngài – Tulku Lhaksam, vị hiện là người đứng đầu của Tu viện Nyenlung và là vị trì giữ truyền thừa cho các giáo lý kho tàng của hai vị và của Apang Terchen. Bên cạnh việc là tái sinh của Đức Zhichen Kunzang Nyima, Tulku Lhaksam cũng được xem là vị tái sinh của Tulku Ngaro, người con trai đã chết trẻ của Bà Tare Lhamo. Ngày nay, di cốt của Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche được thờ bên cạnh nhau trong một phòng thờ trong khuôn viên gia đình ở Nyenlung.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Tare-Lhamo/8651.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

 



[1] Holly Gayley là Giáo Sư Trợ Lý (Assistant Professor) trong Phòng Nghiên Cứu Tôn Giáo tại Đại Học Colorado, Boulder.

[2] Về Dudjom Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35008/tieu-su-van-tat-dudjom-rinpoche-jigdral-yeshe-dorje-1904-1987-.

[3] Về Sera Khandro, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a36670/tieu-su-van-tat-duc-sera-khandro-kunzang-dekyong-wangmo-1892-1940-.

[4] Về Khenpo Jigme Phuntsok, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a27321/tieu-su-van-tat-duc-kyabje-jigme-phuntsok-rinpoche.

[5] Về Lerab Lingpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35557/tieu-su-van-tat-terchen-lerab-lingpa-terton-sogyal-1856-1926-.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22054)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27410)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37829)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20659)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14481)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19544)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14404)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20880)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28583)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27147)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21876)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21374)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26145)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21543)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23335)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23128)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19774)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22852)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21079)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19919)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15371)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26004)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22486)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22793)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30413)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33140)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35473)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27009)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17695)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24293)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14616)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant