Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)

29 Tháng Mười 202120:00(Xem: 2388)
Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)
Tiểu Sử Vắn Tắt Khandro Tare Lhamo (1938-2002)

Holly Gayley [1]
  Pema Jyana


bo tat van thu

Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok. Cha Bà là Terton (vị phát lộ kho tàng) lỗi lạc của gia đình Apang, vị được gọi là Apang Terchen Pawo Choying Dorje (1895-1945), tức Orgyen Trinle Lingpa. Mẹ Bà, Damtsik Drolma, là con gái của một vị thủ lĩnh địa phương và được công nhậnhóa hiện về khẩu của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Vô số tiên tri liên quan đến sự chào đời của Bà Tare Lhamo được đưa ra bởi những vị lỗi lạc như Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe Dorje (1904-1987)[2]. Dựa trên những tiên tri như vậy, Bà Tare Lhamo được công nhận khi còn nhỏ là hóa hiện của hai nhân vật trong vùng thuộc thế hệ trước, một nam và một nữ, lần lượt là Tra Gelong Tsultrim Dargye (1866-1937) và Sera Khandro (1892-1940)[3], vị cũng được biết đến là Uza Khandro Dewe Dorje. Sự công nhận thứ hai là hơi lạ thường, bởi Sera Khandro vẫn chưa viên tịch cho đến hai năm sau khi Bà Tare Lhamo chào đời. Không có ghi chép nào về việc Bà Tare Lhamo thọ nhận hay trao truyền các giáo lý của những vị này, cũng như việc Bà được chính thức tấn phong là một hóa hiện của vị nào. Khi còn là một đứa bé, Bà nhận được một vài trong số những tài sản của Tra Gelong và được mời đến rèn luyện tại Tu viện của Ngài như một vị Ni. Tuy nhiên, Bà từ chối và quyết định sống như một chủ hộ và tiếp tục sống cùng gia đình. Giống như mẹ, Bà cũng được xác nhận là một hóa hiện của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Thời trẻ, Bà nghiên cứu với cha – Apang Terchen, thậm chí phát lộ một kho tàng với cha khi còn là một đứa bé. Từ Ngài, Bà thọ trao truyền cho Nyingtik Yabshi và toàn bộ các phát lộ kho tàng của Ngài trước khi Ngài viên tịch vào năm 1945, khi Bà chỉ mới chín tuổi (theo cách tính Tây Tạng, tám tuổi theo tiêu chuẩn quốc tế). Theo phong tục Nyingma phổ biến của việc trao truyền giáo lý qua gia đình, Bà Tare Lhamo cùng các anh em trai trở thành những vị nắm giữ truyền thừa của cha. Các anh em trai của Bà, tất cả đều được công nhận là những đạo sư tái sinh, là Gyurme Dorje (sinh năm 1928), Wangchen Nyima (sinh năm 1931) và Thubten Chokyi Nyima (sinh khoảng năm 1939). Ngài Wangchen Nyima tiếp nối cha, trở thành người đứng đầu của Tsimda Gompa, Tu viện mà Apang Terchen thành lập năm 1925 ở Markhok trong Hạt Padma của Golok.

Trong phần còn lại của thời trẻ và đầu tuổi trưởng thành, Bà Tare Lhamo du hành cùng mẹ – Damtsik Drolma, đến các thánh địa ở Golok và thọ nhận giáo lý từ những đạo sư lỗi lạc thời ấy. Hai vị thầy chính yếu của Bà là Dodrubchen Rinpoche thứ tư – Rigdzin Jalu Dorje (1927-1961) và Dzongter Kunzang Nyima (1904-1958), cháu nội và cũng là hóa hiện về khẩu của vị Terton lừng danh – Dudjom Lingpa (1835-1904). Từ Ngài Rigdzin Jalu Dorje, Bà thọ nhận những chỉ dẫn khẩu truyền về Nyingtik Yabshi. Từ Dzongter Kunzang Nyima, Bà thọ quán đỉnh, sự cho phépchỉ dẫn cho toàn bộ kho tàng của Ngài, cũng như của Dudjom Lingpa, và Ngài bổ nhiệm Bà là vị trông giữ kho tàng (chodak) cho pho Yeshe Tsogyal của Ngài. Từ trẻ, theo tiểu sử của Bà, Bà đã bắt đầu phát lộ các kho tàng dưới dạng những giỏ và cuộn kinh vàng.

Năm hai mươi tuổi (theo cách tính Tây Tạng), Bà gia nhập khu trại của Dzongter Kunzang Nyima ở Rizab và kết hôn với con trai của Ngài, Mingyur Dorje (1934-1959), tức Pema Osel Nyingpo. Trong khoảng thời gian ngắn bên nhau, họ có một người con trai, Wangchuk Dorje, thường được gọi là Tulku Ngaro. Trong quá trình biến đổi cộng sản ở Golok vào cuối những năm 1950, theo luật lệ của Cộng sản Trung Quốc, Tulku Milo và ba anh em trai của Bà Tare Lhamo bị giam giữ, cùng với nhiều nhân vật tôn giáo khác, nơi mà cuối cùng họ đều qua đời. Bà Tare Lhamo không bị giam cầm, có lẽ bởi giới tính, cũng như nhiều đạo sư trẻ tuổi hơn, những vị chỉ là thiếu niên khi ấy. Lúc bắt đầu Cách mạng Văn hóa (1966-76), con trai Bà qua đời vì bệnh tật và sau đấy, mẹ Bà cũng qua đời vì tuổi cao, để lại Tare Lhamo đơn độc.

Năm 1978, Bà Tare Lhamo khởi xướng một sự hợp tác với Namtrul Rinpoche Jigme Phuntsok (1944-2011), một đạo sư kém Bà sáu tuổi, vị sống ở vùng biên giới của Hạt Serta thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Sau hơn một năm trao đổi thư từ, Bà rời quê nhà Hạt Padma thuộc tỉnh Thanh Hải để đến gia nhập cùng với Namtrul Rinpoche ở Serta, nơi mà hai vị sống cùng nhau đến khi Bà qua đời vào năm 2002. Cùng nhau, họ xây dựng lại Tu viện Nyenlung ở quê nhà của Namtrul Rinpoche, cùng với Rigdzin Nyima, một đạo sư đã giữ địa điểm này như một ẩn thất và sống gần bên hai vị. Mặc dù Bà Tare Lhamo từ bỏ đặc quyền là người đứng đầu của Tsimda Gompa bằng cách rời Hạt Padma, Bà và Namtrul Rinpoche vẫn tiếp tục là những vị thầy căn bản ở đó, và Bà đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lại Tu viện.

Năm 1980, Khenpo Jigme Phuntsok (1933-2004)[4] ban cho Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche trao truyền về tuyển tập kho tàng của Apang Terchen, điều mà Bà vốn đã thọ trực tiếp từ cha khi còn là một đứa bé, và khuyến khích họ truyền bá rộng khắp. Sau đấy năm 1986, Ngài cho phép họ trở thành Terton và ban trao truyền cho tuyển tập kho tàng của Lerab Lingpa (1856-1926)[5], tiền thân của chính Ngài. Năm 1987, Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche gia nhập đoàn tùy tùng khoảng 10.000 người của Ngài trong chuyến hành hương lịch sử đến Ngũ Đài Sơn, thánh địa của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở tỉnh Sơn Tây, nơi mà hai vị đã phát lộ một nghi quỹ Diệu Âm Sarasvati.

Năm 1990, Dola Chokyi Nyima Rinpoche ban cho họ trao truyền về tuyển tập kho tàng của cha Ngài – Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe, và cho phép họ truyền bá chúng. Không lâu sau, Bà Tare Lhamo thu hút sự chú ý quốc tế khi công nhận con trai của Ngài Dola Chokyi Nyima là một trong hai vị tái sinh của Dudjom Rinpoche.

Trong suốt thập niên 80 và 90, Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche đã phát lộ các kho tàng cùng nhau và giảng dạy rộng rãi, khắp vùng Golok và hơn thế. Về sự giảng dạy, hai vị đã nắm giữ và trao truyền ba tuyển tập kho tàng chính yếu: tuyển tập kho tàng của chính hai vị trong mười hai quyển, tuyển tập của cha Bà – Apang Terchen trong mười sáu quyển, và của Đức Jigdral Yeshe Dorje. Hai vị đã tổ chức một Pháp hội thường niên tại Nyenlung mỗi mùa hè, thu hút hơn một nghìn môn đồ tham dự kể từ những năm 90, và đóng vai trò là vị quản lý cho nhiều Tu viện khác ở Golok và các vùng lân cận, giúp gây quỹ cho các dự án tái thiết, tài trợ nghi lễthiết lập thực hành nghi lễ, trong khi thường xuyên viếng thăm để giảng dạy. Hai vị cũng đặc biệt yêu thích và thúc đẩy sử thi Gesar.

Cuối năm 2000, Bà Tare Lhamo lâm bệnh và năm sau, Bà được chẩn đoán mắc một căn bệnh, điều có lẽ là ung thư thực quản. Các biện pháp khác nhau về nghi lễthực tiễn được thực hiện để cố gắng chữa lành, bao gồm cả việc dành thời gian ở các bệnh viện tại Barkham và Thành Đô. Bà qua đời vào ngày 6 tháng 3 năm 2002 ở Thành Đô và nhục thân Bà được đưa về Nyenlung không lâu sau để cử hành tang lễ thích hợp. Namtrul Rinpoche tiếp tục quản lý và phát triển cộng đồng tâm linh trong gần một thập niên cho đến khi qua đời vào ngày 7 tháng 11 năm 2011.

Truyền thừa Giáo Pháp của Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche được trao lại cho con trai của Ngài – Tulku Lhaksam, vị hiện là người đứng đầu của Tu viện Nyenlung và là vị trì giữ truyền thừa cho các giáo lý kho tàng của hai vị và của Apang Terchen. Bên cạnh việc là tái sinh của Đức Zhichen Kunzang Nyima, Tulku Lhaksam cũng được xem là vị tái sinh của Tulku Ngaro, người con trai đã chết trẻ của Bà Tare Lhamo. Ngày nay, di cốt của Bà Tare Lhamo và Namtrul Rinpoche được thờ bên cạnh nhau trong một phòng thờ trong khuôn viên gia đình ở Nyenlung.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Tare-Lhamo/8651.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

 



[1] Holly Gayley là Giáo Sư Trợ Lý (Assistant Professor) trong Phòng Nghiên Cứu Tôn Giáo tại Đại Học Colorado, Boulder.

[2] Về Dudjom Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35008/tieu-su-van-tat-dudjom-rinpoche-jigdral-yeshe-dorje-1904-1987-.

[3] Về Sera Khandro, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a36670/tieu-su-van-tat-duc-sera-khandro-kunzang-dekyong-wangmo-1892-1940-.

[4] Về Khenpo Jigme Phuntsok, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a27321/tieu-su-van-tat-duc-kyabje-jigme-phuntsok-rinpoche.

[5] Về Lerab Lingpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a35557/tieu-su-van-tat-terchen-lerab-lingpa-terton-sogyal-1856-1926-.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 183)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 185)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 309)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 651)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 660)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 775)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 751)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1054)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1276)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1090)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2373)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1765)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3469)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1585)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2531)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2309)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 1951)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2911)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 1978)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2344)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1764)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1655)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 1467)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2780)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1824)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3739)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2073)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1927)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2462)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4420)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1870)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2781)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1604)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2499)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2595)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 1998)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3573)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3021)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 1957)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 1985)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2316)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2022)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1858)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2421)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2079)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2124)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2530)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3601)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2172)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3282)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 2923)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5200)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2576)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3859)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5264)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3812)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2720)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2460)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2669)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
(Xem: 3658)
Với những vị nhấn mạnh duy nhất vào việc trưởng dưỡng Bồ đề tâm trong cuộc đời, lời khuyên thích hợp cho họ khi tiến gần đến cái chết là nương tựa năm sức mạnh để định hướng lối đi của họ đến đời sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant