Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Sử Vắn Tắt Nữ Hành Giả Mandarava

31 Tháng Mười 202120:08(Xem: 1732)
Tiểu Sử Vắn Tắt Nữ Hành Giả Mandarava
Tiểu Sử Vắn Tắt Nữ Hành Giả Mandarava

Sarah Jacoby [1]
Pema Jyana

Giọt Nước Có Buồn Không

Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor, miền Đông Bắc Ấn Độ, giữa những dấu hiệu phi phàm. Cha Bà là một hóa hiện của Tịnh Phạn, cha của Đức Phật và mẹ Bà là một Không Hành Nữ. Bà Mandarava là một hóa hiện của Phật Mẫu Pandaravasini, vị phối ngẫu của Phật Vô Lượng Quang.

Mặc dù cha mẹ yêu thương đáp ứng mọi mong ước của Bà, khi lớn lên, Bà bị thôi thúc bởi tính không thể tránh được của khổ đau trong luân hồi. Bà xin phép cha mẹ được hiến dâng cuộc đời cho thực hành tâm linh và họ đồng ý với điều kiện rằng Bà vẫn ở trong cung điện.

Trong những phòng ở phía trên của cung điện, Bà Mandarava tận tụy nghiên cứu cho đến khi trở thành học giả vĩ đại nhất trong vùng. Bà đã nghiên cứu văn họcsáng tác, tất cả ngôn ngữ và phương ngữ của miền Đông và Tây Ấn Độ, thi ca, lô-gic, ngữ pháp, tụng đọc, y học và chiêm tinh.

Mười ba tuổi, Bà Mandarava đã làm chủ mọi ngành khoa học. Bà nghiên cứu Tứ Diệu Đế và thọ Bồ Tát giới với đạo sư Vimalaprajna. Bà truyền cảm hứng khiến tất cả thiếu nữ trong cung điện bước vào con đường tâm linh. Tuy nhiên, cha Bà không chấp nhận yêu cầu được xuất gia làm một vị Ni của Bà. Các vị vua từ khắp nơi đến thỉnh cầu được kết hôn với Bà Mandarava và cha của Bà yêu cầu rằng Bà phải kết hôn với một trong số họ.

Chán ghét luân hồi, Mandarava chạy trốn khỏi cuộc hôn nhân ép buộcthọ giới xuất gia từ một Bồ Tát. Chấp thuận lựa chọn này, đức vua phái năm trăm hầu gái cùng xuất gia với Bà. Mandarava và năm trăm vị Ni sau đó sống trong cung điện được canh gác nghiêm ngặt của riêng họ.

Ngày nọ, Đức Liên Hoa Sinh đã hiển bày trước họ và dạy họ tất cả giáo lý Kim Cương thừa. Khi tin đồn về việc Đức Liên Hoa Sinh sống trong cung điện của Mandarava đến tai đức vua, ông ấy nổi giận khi một người bình dân lại dính líu đến con gái của ông ấy sau khi cô ấy đã từ chối kết hôn với tất cả vua láng giềng. Ông ấy ra lệnh giam Mandarava trong hầm và thiêu sống Đức Liên Hoa Sinh. Thay vì bị thiêu, Đức Liên Hoa Sinh biến đám cháy thành hồ dầu mè, vây quanh bởi một vòng lửa mà ở giữa bung nở một bông sen. Trên đó, Ngài an tọa giữa cầu vồng và mây. Nhận ra rằng Đức Liên Hoa Sinh là một hóa hiện của Phật, đức vua sám hối hành vi tiêu cực và thỉnh Đức Liên Hoa Sinh là vua của xứ Zahor. Đức Liên Hoa Sinh và Bà Mandarava đã giảng dạy Giáo Pháp cho tất cả dân chúng trong vùng.

Bà Mandarava đã đồng hành cùng Đức Liên Hoa Sinh đến Động Maratika, nơi hai vị hoàn thiện các thực hành trường thọ liên quan đến sự hợp nhất của Mã Đầu Minh Vương và Hợi Mẫu Kim Cương. Hai vị đạt được sự ‘bất tử’, điều ở đây liên quan đến sự chứng ngộ bất biến về bản tính rốt ráo của tâm và các hiện tượng. Khi trở về từ Maratika, hai vị điều phục các dị giáo trong vương quốc Kotala. Bà Mandarava chịu đựng việc bị cưỡng đoạt và đánh đập bởi những ma quỷ dữ tợn trong nghĩa địa Yongdu Tsal, đã vượt quacải đạo chúng. Bà đã điều phục những kẻ ăn thịt người ở vùng Camara và khiến chúng thực hành Giáo Pháp. Bà hiển bày các thần thông trong tám nghĩa địa khác, điều phục những kẻ dữ tợn ở mỗi nghĩa địa và đưa chúng về Giáo Pháp.

Khi trở về nhà, Bà Mandarava giảng dạy Giáo Pháp trong một năm. Sau đấy, Bà đi cùng Đức Liên Hoa Sinh đến vương quốc Oddiyana. Tuy nhiên, công chúa Prabhadhara đố kỵ với Mandarava và làm dấy lên nghi ngờ về Đức Liên Hoa Sinh trong cha – Vua Indrabhuti. Mặc dù đức vua ra lệnh thiêu chết Đức Liên Hoa Sinh và Bà Mandarava, hai vị biến lửa thành hồ nước và khơi dậy lòng sùng mộ trong tất thảy, cho đến khi tất cả dân chúng trong vùng Oddiyana đều thành tựu thân cầu vồng. Sau đó, Mandarava du hành đến Shambhala để hoàn thành mệnh lệnh của Đức Liên Hoa Sinh về việc điều phục chúng sinh ở đó.

Khi Bà hoàn thành tất cả hoạt động lợi lạc, đã đến lúc Bà từ giã thế gian này. Thân Bà trở nên vô hình rồi hiển bày thành một phạm vi ánh sáng, tràn khắp bầu trời. Bà rời đến cõi Akanistha Padmavyuha và khởi lên thành vị phối ngẫu bí mật thù thắng của trí tuệ nguyên sơ.

Các tiểu sử của Bà Mandarava được phát lộ thành kho tàng từ đầu thế kỷ Mười hai bởi Đức Nyangral Nyima Ozer (1136-1204). Orgyen Lingpa và Sangye Lingpa (1340-1396) cũng là những vị phát lộ kho tàng đã tìm ra câu chuyện về cuộc đời Bà. Miêu tả của Samten Lingpa (vị sinh năm 1655), mà bản tiểu sử này dựa trên, đã được dịch sang Anh ngữ với tựa đề The Lives and Liberation of Princess Mandarava [Cuộc ĐờiSự Giải Thoát Của Công Chúa Mandarava].

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Mandarava/9.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Sarah Jacoby là Giáo Sư Trợ Lý (Assistant Professor) về Tôn giáo tại Đại Học Northwestern. Bà ấy nhận bằng tiến sĩ về các nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng tại Đại học Virginia vào năm 2007.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22062)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27435)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37843)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20667)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14485)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19551)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14411)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20890)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28595)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27160)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21884)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21395)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26156)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21552)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23355)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23139)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19781)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22879)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21091)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19926)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15378)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26007)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22493)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22805)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30423)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33161)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35483)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27019)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17701)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24307)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14624)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant