Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Phakmodrupa Dorje Gyalpo (1110-1170)

07 Tháng Mười Một 202119:51(Xem: 2401)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Phakmodrupa Dorje Gyalpo (1110-1170)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Phakmodrupa Dorje Gyalpo (1110-1170)

Dan Martin[1]
Pema Jyana

Hoa Vô Ưu

Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham. Theo một số tài liệu, cha Ngài tên là Wena Atar và mẹ Ngài là Tsunne. Họ qua đời khi Ngài mới chỉ là đứa bé khoảng bảy tuổi. Các nguồn khác cho rằng họ tên là Tsangpa Paldrak và Tsangmo Rinchen Gyen. Em trai của Ngài, (hoặc theo một số nguồn, em họ), vị sau đó được biết đến với danh hiệu Dampa Deshek (1122-1192), sau này thành lập một Tu viện Nyingma cổ xưa vô cùng quan trọng ở Kham gọi là Kathok. Người ta nói rằng trước khi lên ba, Ngài Phakmodrupa có thể nhớ rằng Ngài từng là một con khỉ vào thời của Phật quá khứ – Đức Ca Diếp. Ngài quên chuyện đó khi cha mẹ cho Ngài ăn thịt ô nhiễm, nhưng phục hồi lại ký ức về đời quá khứ này sau đó.

Khi cha mẹ qua đời, Ngài Phakmodrupa được đặt dưới sự chăm sóc của chú, một tu sĩ có công việc ở bên ngoài Tu viện nhỏ, Chakhyi Lhakhang, như một thầy tu gia đình. Người chú này đã tài trợ cho thời kỳ mới tu của Ngài, trong khi Ngài lại giúp chú bằng cách làm nhiều việc khác nhau, chẳng hạn minh họa các bản thảo. Ngài có tài năng thiên bẩm về hội họa và thi pháp, làm chủ đọc và viết không chút khó khăn. Sau đấy, Ngài làm người giữ ghi chép cho Khenpo Tsultrim, vị trụ trì của Tu viện; vì vị này, Ngài cũng chép một quyển kinh Bát Nhã Ba La Mật bằng chữ bạc.

Khi Ngài Phakmodrupa khoảng hai mươi tuổi, mang theo chút ngọc lam để làm vốn, Ngài du hành một hành trình dài đến các vùng trung tâm của Tây Tạng. Ở đó, sau khi thọ đại giới vào năm hai mươi lăm tuổi, và sau nhiều năm nghiên cứu tại các nơi khác nhau – ban đầu chủ yếu là với những vị thầy Kadampa, và sau đấy là những vị thầy của truyền thừa Mật thừa tồn tại khi ấy – Ngài tìm ra một vị thầy mà Ngài dành khoảng mười hai năm thân cận. Đây là một trong những đạo sư Mật thừa nổi tiếng nhất của trường phái Sakya từ thời xa xưa – Đức Sachen Kunga Nyingpo (1092-1158). Trong thời gian thân cận Đức Sachen, Ngài chủ yếu nghiên cứuthực hành Lamdre. Ngài đã biên soạn một trích yếu các giáo lý Lamdre, điều vẫn còn tồn tại, được gọi là Pedzod-ma.

Sau đấy, Ngài dành hai năm bên Đức Gampopa Sonam Rinchen (1070-1153), một đệ tử thân cận của Tổ Milarepa. Ban đầu, khi Ngài đến trụ xứ của Đức Gampopa, Daklha Gampo, cùng với Zhang Yudrakpa Tsondru Drakpa (1123-1193), Đức Gampopa khó ở và không tiếp khách; vì thế, Ngài dành bốn ngày gánh đất và đá để xây dựng một bảo tháp. Kết quả là, Ngài có thể thọ nhận giáo lý và dưới sự dìu dắt của Đức Gampopa, Ngài được cho là đã đạt thành tựu viên mãn về Đại Thủ Ấn. Những năm tháng không mệt mỏi tìm kiếm sự dẫn dắt tâm linh của Ngài đã hoàn mãn. Một vài trong số những cuộc đối thoại của Ngài với Đức Gampopa về thiền định vẫn còn có thể đọc được cho đến nay.

Một ẩn sĩ ở vùng về phía Đông của thành Tsetang, một nơi được gọi là Phakmodru, trao cho Ngài ẩn thất thiền định của ông ấy. Đó là một nơi có vẻ đẹp tự nhiên lớn lao với nhiều cây bách xù. Dần dần, các thiền gia khác đã đến đó và dựng thất của họ, điều tạo thành trung tâm ban đầu cho Tu viện Densatil. Nơi này về sau trở thành Tu viện ‘mẹ’ cho hàng trăm Tu viện khác và vào thời kỳ đầu này, nó thường được gọi đơn giản là Densa, “trụ xứ”.

Sau đó, vào thời kỳTây Tạng được cai quản bởi Triều đình Phakmodru (1350-1481), các bảo tháp oai nghiêm, thứ đóng vai trò là mộ tháp hoàng gia, đã được xây dựng ở đây. Địa điểm nơi có thiền thất đơn giản từ cỏ và cây liễu của Đức Phakmodrupa – nó đã tồn tại cho đến giữa thế kỷ hai mươi – vẫn được xem là địa điểm linh thiêng nhất của Tu viện. Khi Đức Phakmodrupa giảng dạy ở đó, người ta nói rằng các tu sĩ thường phủ kín mặt đất tuyến đường từ thất của Ngài đến ngai tòa thuyết giảng bằng mũ, y phục và khăn Katak của họ. Các tu sĩ bị thu hút từ những nơi xa xôi bởi các tường thuật phổ biến rằng, hầu như không có ngoại lệ, những vị tham dự các buổi giảng của Ngài Phakmodrupa đều có các kinh nghiệm thiền định rất mạnh mẽ.

Sau đây là ví dụ ngắn từ các giáo lý của Ngài Phakmodrupa, với sự nhấn mạnh vào thiền định. Nó được trích từ Thang Bảo Châu:

Những người nương tựa [vào các triết lý này]

thể đạt được sự chắc chắn nhờ khả năng hiểu biết của họ

Về các tri kiến đa dạng khác nhau của họ,

Nhưng bởi họ không hiểu hay chứng ngộ chúng

Nhờ thực hành thiền định,

[Tri kiến] của họ là tri kiến chẳng có chứng ngộ.


Không chỉ trong ba vô lượng kiếp,

Mà thậm chí trong một triệu, họ có thể đi theo lối của họ.

Vẫn chẳng thể ép dầu từ vỏ khô.

Họ có thể cày cuốc mặt đất mùa đông,

Nhưng mùa xuân đến cũng chẳng có kết quả nào.

Những vị muốn đi về Đông

Uổng phí bước đi khi đi về Tây.

Những người đau khổ bởi cái nóng oi ả

Muốn bóng mát, nhưng chắc chắn, họ cứ lặp đi lặp lại

Sưởi bên lửa,

Họ sẽ chỉ tiếp tục đau khổ bởi nóng.

Ngài Phakmodrupa xem bản thân là đầy tớ của tất cả hữu tình chúng sinh và bất cứ cúng dường nào mà Ngài nhận được đều được dùng vì sự an lành của toàn bộ cộng đồng tu sĩ. Ngài ăn đồ ăn giống như những vị khác. Ngài rất nghiêm khắc về việc giữ gìn giới luật Luật Tạng của bản thânmong chờ điều tương tự từ cộng đồng của Ngài. Ngài không xem thường bất kỳ nhiệm vụ nào và được biết là đã gánh nước và dọn tro. Ngài đi khất thực cùng với những tu sĩ khác, một thực hành nổi tiếng ở các nước Phật giáo Theravada nhưng khác thường ở Tây Tạng. Ngài có thói quen sống cô tịch trong giai đoạn trăng khuyết dần, nhưng trong giai đoạn trăng tròn dần, Ngài thường ban giáo lý mỗi buổi chiều. Nhiều trong số những thời giảng dạy được gọi là Tsogcho này đã được ghi chép lại và chúng là những bài giảng lôi cuốn.

Khi Ngài Phakmodrupa qua đời vào năm 1170, sự kiện được cho là đồng hành cùng nhiều dấu hiệu tuyệt vời về sự thành tựu cao cấp của Ngài. Khoảng 1600 tu sĩ đã tham dự tang lễ của Ngài. Nhiều môn đồ cư sĩtu sĩ của Ngài quyết định xây dựng một bảo tháp để lưu giữ xá lợi của Ngài. Một nhóm thợ thủ công Newar, dẫn đầu bởi Manibhadra, đã thực hiện nhiều công việc liên quan. Ngoài chân dung của những đại thành tựu giả, bảo tháp có 2170 hình tướng khác nhau của Phật.

Truyền thừa của Ngài Phakmodrupa thường được gọi là Phakdru Kagyu hay thuật ngữ này được dùng như một cách để bao gồm tất cả truyền thừa xuất hiện từ các đệ tử của Ngài. Quan trọng và nổi tiếng nhất trong các truyền thừa hay trường phái này là Drukpa Kagyu – điều đến từ đệ tử Lingrepa Pema Dorje (1128-1188), Drikung Kagyu – điều đến từ Jigten Gonpo Rinchen Pal (1143-1217) và Taklung Kagyu từ Taklung Thangpa Tashi Pal (1142-1209/10). Năm đệ tử khác, những vị thiết lập các truyền thống riêng biệt của Kagyu (hay là đạo sư của những vị sáng lập) là: Marpa Sherab Yeshe (1135-1203) – vị sáng lập Martsang Kagyu, Gyergom Tsultrim Senge (1144-1204), vị sáng lập Shukseb Kagyu, Gyaltsa Rinchen Gon (1118-1195) – vị sáng lập Tu viện Tropu, trụ xứ của Tropa Kagyu được khởi xướng bởi đệ tử Tropu Lotsawa Jampa Pal (khoảng 1172-1225/1236), Yabzang Choje Chokyi Monlam (1169-1223) – vị sáng lập Yabzang Kagyu và Yelpa Yeshe Tsek (1134-1194) – vị sáng lập Yelpa Kagyu.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Pakmodrupa/TBRC_P127.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Dan Martin là một học giả ở Israel. Ông ấy nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Indiana năm 1991.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21388)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22172)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16879)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 13425)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22811)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19006)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18465)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21629)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20040)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14079)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15010)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 17244)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15884)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13000)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13139)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 22654)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 19367)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37716)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 17904)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14571)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19715)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14639)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 15939)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 29838)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 17769)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 18534)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 19927)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 19102)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18566)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20698)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19424)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18529)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 29867)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 21606)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 20821)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26329)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 52149)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 21792)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 35034)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 17252)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18039)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19586)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 17472)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 30829)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19189)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 19556)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19764)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 19404)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 58766)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 19768)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 19124)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15117)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33049)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17488)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19126)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 23004)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16622)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16466)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16511)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22990)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant