Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Barompa Darma Wangchuk (1127-1199)

13 Tháng Mười Một 202119:24(Xem: 2925)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Barompa Darma Wangchuk (1127-1199)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Barompa Darma Wangchuk (1127-1199)

Dan Martin[1]
Pema Jyana


Buông Xả Hơn Thua Nhưng Không Im Lặng

Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển: Bumkyab, nghĩa là “Được Trăm Nghìn Đoạn Kệ Bát Nhã Bảo Vệ” – ấn bản dài nhất của Kinh Bát Nhã Ba La Mật. Khi hai em trai của cậu bé sinh ra, chúng được đặt tên tương tự theo hai phiên bản ngắn gọn hơn của Kinh: Trikyab – Được Mười Nghìn Bảo VệGyetong Kyab – Được Tám Nghìn Bảo Vệ. Người cha tên là Tonpa Jungne Lodro và người mẹ là Jomo Lochungma.

Cậu bé xuất gia vào năm bảy hay tám tuổi theo những vị thầy tên là Khenpo Pokawa Darma Senge và Wangchuk Zhonnu và nhận danh hiệu Darma Wangchuk; từ đó về sau, cậu được biết đến với danh hiệu này. Thuở thiếu niên, cậu nghiên cứu với những đạo sư từ truyền thừa Kadam, nổi tiếng nhất là Chayulwa Chenpo Zhonnu O, tập trung vào các giáo lý của Tổ Atisha, Đức Di Lặc và Tôn giả Thánh Thiên. Cậu bé cũng nghiên cứu với Ngài Drolungpa Lodro Jungne và Potowa Rinchen Sal (1027-1105).

Ngay từ những năm nhỏ tuổi hơn, cậu bé đã nghe về tiếng tăm của Đức Gampopa Sonam Rinchen (1079-1153) và trong lúc nghiên cứu, cậu ấp ủ mong mỏi mạnh mẽ được trở thành đệ tử của Ngài. Đi cùng một người bạn trong Tu viện, họ mang theo các món cúng dường là trà và vàng đến Dakla Gampo, nơi mà Đức Gampopa cư ngụ.

Đức Gampopa ngay lập tức chấp nhận họ vào cộng đồng, nhưng sau một tháng, Ngài Darma Wangchuk bị bệnh nặng. Da Ngài đầy những mụn ngọt và cơn đau thật chẳng thể chịu đựng. Ngài nằm mơ thấy một hồ đen với đầy cá và nòng nọc, nghĩ rằng Ngài sẽ nhảy vào đó. Theo truyền thuyết, Đức Gampopa xuất hiện trong một giấc mơ và dùng ngón út của tay trái tóm lấy Ngài, ngăn Ngài lại khi nói rằng, “Lòng tôn kính mãnh liệt là nền tảng cho các kết nối phụ thuộc lẫn nhau. Hãy giữ lấy móc câu bi mẫn. Hãy đạt đến cấp độ của hỷ lạc bất biến”. Giấc mơ kết thúc khi hai vị bay liệng vào hư không – giấc mơ như một ám chỉ về mối quan hệ thầy – trò – và khi Ngài thức giấc, căn bệnh hoàn toàn biến mất.

Ngài Darma Wangchuk phụng sự thân cận Tổ Gampopa và có cơ hội cứu mạng Tổ nhiều lần, một lần khi Tổ có nguy cơ bị đè bẹp bởi đám đông hăm hở nhận đồ gia trì và lần thứ hai khi Tổ bị ngã từ con chiến mã giận dữ với tên gọi không chắc đúng – Lugu, điều nghĩa là ‘cừu non’.

Năm 1153, Đức Gampopa trao cho Ngài Darma Wangchuk một miếng vàng và khuyên Ngài đi thiền định tại ẩn thất ở Barom. Không muốn rời xa đạo sư lớn tuổi, Ngài từ chối chấp nhận vàng và xin phép được phục vụ Tổ chừng nào Tổ còn trụ thế. Không lâu sau khi Đức Gampopa viên tịch và Ngài Darma Wangchuk đã ở lại đủ lâu để làm một trăm nghìn bức Tsatsa chứa tro cốt của đạo sư. Chỉ khi ấy, Ngài mới tuân theo lời khuyên của đạo sưthiền định ở Barom thuộc Nakchu.

Trong khóa nhập thất bảy năm, điều bắt đầu vào năm 1154, Ngài không gặp người nào, ngoại trừ người thỉnh thoảng mang cho Ngài các nhu yếu phẩm. Ngài được cho là được nhiều phi nhân viếng thăm, bao gồm các tinh linh bảo vệ địa phương, đặc biệt là vị được gọi là Bạch Cư Sĩ. Trong thời gian này, Ngài biên soạn nhiều bài ca theo truyền thống của Tổ Milarepa (1040-1123) và cộng đồng đã phát triển thành điều được biết đến là Tu viện Barom.

Sau khóa nhập thất, Ngài đến Kham ba lần, nơi Ngài nhận được sự bảo trợ từ những vị cai quản địa phương và thu hút nhiều đệ tử. Ngài cũng thiết lập nhiều Tu viện, bao gồm Kotso và Lode. Tại nơi gọi là Chiwar Lhakhang, Ngài gặp và gia trì một cậu bé, người sau này đến gặp Ngài và trở thành đệ tử chính yếu của Ngài, Tishri Repa Sherab Senge (1164-1236).

Ngài Darma Wangchuk trở về U và trở thành người đứng đầu của cộng đồng tu sĩ ở Barom. Trong lúc phụng sự là vị trụ trì đầu tiên của Tu viện, Ngài gặp hai trưởng lão Kagyu quan trọng khác, cả hai đều là đệ tử của Tổ Phakmodrupa Dorje Gyalpo (1110-1170)[2]: Taklung Thangpa Tashi Pal (1142-khoảng 1209), vị sáng lập Tu viện Taklung và Jigten Gonpo Rinchen Pal (1143-1217), vị sáng lập Tu viện Drikung. Theo truyền thống, các đệ tử thấy nhiều bằng chứng về các khả năng phi phàm của Ngài, điều bao gồm vô hình, tiên trithần thông như đi qua tường như thể qua không khí.

Các đệ tử khác của Ngài bao gồm Tsetrom Wangchuk Senge và Draka Lhadron.

Ngài viên tịch, vào khoảng năm 1194, ở tuổi bảy mươi hai với vô số dấu hiệu và hình ảnh.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Barompa-Darma-Wangchuk/3181.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Dan Martin là một học giả ở Israel. Ông ấy nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Indiana năm 1991.

[2] Về Đức Phakmodrupa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a36724/tieu-su-van-tat-duc-phakmodrupa-dorje-gyalpo-1110-1170-.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21937)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27243)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37706)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20578)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14405)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19473)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14295)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20753)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28447)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27028)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21749)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21253)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26007)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21440)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23217)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 22984)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19668)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22744)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 20940)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19804)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15300)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 25870)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22351)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22668)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30293)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33025)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35338)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 26869)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17566)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24193)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14515)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant