Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất

06 Tháng Mười Hai 202119:51(Xem: 1602)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất

Samten Chhosphel[1]
Pema Jyana


cam tho1

 Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một. Cha mẹ Ngài thuộc về một bộ tộc cao quý, quyền uy ở Uru, Penpo tên là Depa Tonpo, những vị cai quản nhiều gia đình trong vùng.

Theo tiểu sử, các tiền thân của Ngài bao gồm nhiều đạo sư Ấn ĐộTây Tạng, chẳng hạn Tôn giả Văn Thù Hữu (Manjushrimitra)[2], vua Pháp A Dục, Kamalashila (713-763), Lhase Mutik Tsepo, một trong những tu sĩ đầu tiên ở Tây Tạng – Ma Rinchen Chok[3], trưởng lão Kagyu – Milarepa (1040-1123), Rongton Sheja Kunrik (1367-1449)[4] và Drikung Rinchen Phuntsok (1509-1557).

Mười ba tuổi, Ngài trốn khỏi nhà và đến học viện lớn tại Tu viện Ketsel, một trung tâm nổi tiếng về các nghiên cứu biện chứng trong truyền thống Sakya. Vị trụ trì ở đó đã trao cho Ngài các giới luật tu sĩ căn bản (Rabjung Dompa). Ngài đã học thuộc nhiều bản văn quan trọng trong chương trình chính yếu của Tu viện, bao gồm những lời cầu nguyện, nghi thức và đoạn kệ gốc và sau đó, nghiên cứu tuyển tập bảy bản văn Pramana của lô-gic và nhận thức luận Phật giáo. Ngài tiếp tục nghiên cứu với nhiều đạo sư tại các Tu viện Sakya khác nhau, bao gồm Palkhor Chode ở Gyantse, Tanak Thubten Ling, Serdokchen và Ngor. Đức Sakya Gongma, có lẽ là Ducho Labrangpa Jamgon Sonam Wangchuk (1638-1685) đã nhiều lần tán thán Ngài về sự uyên bác trong truyền thống.

Tại Sangphu, Ngài tiếp tục nghiên cứu triết học Pramana trong một giai đoạn dài. Ngài tập trung vào nhận thức luận và cuối cùng, trở thành một học giảthẩm quyền về chủ đề này. Ngài đã tham gia vào các cuộc thi truyền thống về kỹ năng tranh luậnchứng tỏ kiến thức của bản thân về Pramana tại các Tu viện Sangphu, Rato và Dreyul Ketsel, tất cả đều nổi tiếng về sự nghiên cứu về nhận thức luận. Kết quả là, Ngài nhận được danh hiệu Rabjampa, nghĩa là “vô lượng”.

Ngài cũng nghiên cứu với nhiều đạo sư xuất chúng từ truyền thống Geluk tại ba Tu viện lớn – Sera, Drepung và Ganden, và Ngài đã nghiên cứu các Mật điển theo truyền thống Geluk tại cả Học viện Gyurme và Gyuto ở Lhasa, bao gồm Mật Tập, Thắng Lạc, Đại Oai Đức, và cũng trở nên nổi tiếng trong những học giả Geluk.

Ngài sau đó đóng vai trò là vị hỗ trợ cho Pabongkhapa Jamyang Drakpa, một vị phụ tá thân cận của Đức Dalai Lama thứ Năm – Ngawang Lobzang Gyatso (1617-1682). Ngài thọ nhiều giáo lý từ cả Ngài Jamyang Drakpa và chính Đức Dalai Lama.

Có lần, Ngài Jamyang Drakpa đã tiên đoán rằng mặc dù Ngài Tenpe Gyaltsen vốn đã là một chuyên gia về các Mật điển của Tân Dịch (Sarma) [các bản văn Mật thừa được dịch sang Tạng ngữ từ thế kỷ mười một trở về sau], sự thành công trong tương lai của Ngài phụ thuộc vào việc nghiên cứuthực hành các Mật điển cổ xưa của trường phái Nyingma (Cựu Dịch) [các bản văn Mật thừa được dịch sang Tạng ngữ từ thế kỷ bảy đến thế kỷ mười), đặc biệthệ thống Đại Viên Mãn (Dzogchen).

Khi ấy, Đức Dzogchen Drubwang thứ Nhất – Pema Rigdzin (1625-1697) đang ban những giáo lý Dzogchen cao cấp tại Yerpa Lhari, về phía Bắc, gần Lhasa. Hầu hết các quan chức chính phủ được bổ nhiệm trong chính quyền của Đức Dalai Lama thứ Năm, bao gồm cả Ngài Jamyang Drakpa, đều đang tham dự những giáo lý này. Ngài Tenpe Gyaltsen đã gia nhập cùng họ và chẳng bao lâu, Ngài trở thành học trò đứng đầu về sự hiểu và thành tựu tri kiếnthực hành Đại Viên Mãn. Nhờ đó, Ngài nhận được danh hiệu “Dzogchen Rabjampa” và trở thành một trong những đệ tử thân thiết nhất của Đức Dzogchen Drubwang Pema Rigdzin.

Theo chỉ dẫn từ Đức Dalai Lama thứ năm, Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã đồng hành với Ngài Dzogchen Drubwang trong một chuyến du hành đến Kham với tư cáchthị giả. Năm 1685, với sự hỗ trợ của vị vua thứ ba mươi bảy của Derge, Sangye Tenpa (khoảng 1638-1710), Ngài Tenpe Gyaltsen hỗ trợ Đức Pema Rigdzin thiết lập một ẩn thất gọi là Orgyen Samten Choling trong thung lũng Rudam Kyitram, về phía Đông Bắc của thủ phủ Derge. Tu viện dần dần phát triển và sau này trở thành một trong sáu trung tâm tu sĩ chính của truyền thống Nyingma, được biết đến là Tu viện Dzogchen.

Theo một lịch sử tu viện, vào năm 1690, khi bốn mươi mốt tuổi, Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã thành lập một Tu viện gọi là Shechen Orgyen Chodzong, bao gồm một nhà tu sĩ và sảnh đường chính, không xa với Dzogchen. Vị trụ trì đầu tiên tên là Pema Wangchuk, với biệt danh là “Lama Cười”. Người ta nói rằng chương trình ở đó nhấn mạnh vào cả nghiên cứuthực hành. Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã giảng dạy trong cả thời khóa mùa đông và mùa hè. Vào mùa hè, các học trò của Ngài thường lắng nghe và quán chiếu giáo lý về các bản văn nền tảng từ Tam Tạng. Vào mùa đông, họ thường thực hànhthiền định về giáo lý Mật thừa. Theo cách này, người ta nói rằng, họ đã noi theo truyền thống trước kia của việc hòa quyện nghiên cứuthực hành.

Lúc bắt đầu Tu viện, người ta thuật lại rằng Ngài Tenpe Gyaltsen đã tiên đoán rằng một “kho tàng Giáo Pháp” sẽ phát triển ở chính nơi đó; tuy nhiên, giáo lý sẽ đạt đến đỉnh cao nhất ở phía trước của một ngọn núi ở phía bên kia. Đức Rabjam thứ Hai – Gyurme Kunzang Namgyal (1713-1769) đã thành lập một Tu viện mở rộng của Shechen ở phía bên kia từ địa điểm ban đầu vào năm 1734 hay 1735. Chính tại nơi này, Tu viện cuối cùng phát triển thành Tu viện Shechen được biết đến ngày nay, một trong sáu trung tâm tu sĩ Nyingma chính yếuTây Tạng. Dựa trên việc thành lập Tu viện Shechen, Ngài sau này được biết đến là Đức Shechen Rabjam thứ Nhất.

Sau đó, vua của Derge đã cúng dường Ngài Tenpe Gyaltsen Tu viện Trasho Pomdrak, nơi vốn là trụ xứ của Đức Pomdrakpa Sonam Dorje (1170-1249), trưởng lão của truyền thừa Kagyu. Ngài đã sống vài năm trong một thiền thất mới xây dựng ở đó. Tuy nhiên, dường như vài tu sĩ ở đó không thích Ngài, hoài nghi Ngài về ý định biến Tu viện từ truyền thống Kagyu thành Nyingma. Người ta nói rằng bởi điều đó, Ngài Dzogchen Rabjampa rời Tu viện và chuyển đi nơi khác, thích giảng dạy cho các đệ tử bất bộ phái hơn.

Vào một thời điểm nhất định, Ngài Tenpe Gyaltsen quyết định rằng Ngài sẽ dành phần còn lại của cuộc đời để nhập thất và đã sống tại Ẩn thất Tsangrong Shardzong ở Drikung. Tuy nhiên, trong lúc thực hành, Ngài nghe tin đạo sư Dzogchen Drubwang viên tịch và đã nhanh chóng đến Rudam để gia nhập cùng với một vị khác trong những đệ tử thân thiết của Đức Dzogchen Drubwang – Dzogchen Ponlob Namkha Osel (vị qua đời năm 1726) để hoàn thành những tang lễ mở rộng cho đạo sư quá cố. Sau đấy, Ngài sống tại Tu viện Dzogchen, vô cùng tận tụy trong việc ban giáo lýquán đỉnh.

Ngài sau đó hỗ trợ Dzogchen Ponlob trong việc lựa chọn và xác định Đức Dzogchen Drubwang thứ Hai – Gyurme Thekchok Tendzin (1699-1758), vị đã sinh vào dòng dõi của những vị vua Mông Cổ Orod. Cùng nhau, họ đã đưa cậu bé về Tu viện Dzogchen, tấn phong, cử hành lễ thế phát và trao các danh hiệu Pema Wangchen và Pema Wangdrak.

Các đệ tử nổi tiếng nhất của Ngài Tenpe Gyaltsen bao gồm Đức Dzogchen Drubwang thứ Hai – Gyurme Thekchok Tendzin và Hor Rongpa Tsawa – Pema Wangchuk. Bên cạnh đó, Ngài được cho là có hai mươi lăm vị trì giữ truyền thừa, những vị chủ yếu tập trung vào Dzogchen, bao gồm Orgyen Samten, Pema Gyaltsen, Lama Dargye từ Luse, một vị Tokden từ Khardo tên Orgyen Tsultrim và Orgyen Kalzang từ Ling Ratak.

Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen viên tịch năm 1704, Mộc Thân của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười hai, khi năm mươi lăm tuổi. Một ngôi chùa xá lợi tưởng niệm Ngài đã được xây dựng tại Tu viện Dzogchen bởi các đệ tử. Dòng tái sinh của Ngài được biết đến là Shechen Rabjam.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/First-Shechen-Rabjam-bstan-pai-rgyal-mtshan/9213.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Samten Chhosphel nhận bằng Tiến sĩ từ CIHTS ở Ấn Độ, nơi ông ấy đóng vai trò là người đứng đầu Phòng Xuất Bản trong 26 năm. Ông có bằng Thạc sĩ về Biên Soạn & Xuất Bản từ Đại học Emerson, Boston. Hiện tại, ông là Giáo Sư Hỗ Trợ (Assistant Professor) tại Đại Học Thành Phố New York và Cộng tác viên Ngôn ngữĐại Học Columbia, New York.

[2] Theo Rigpawiki, Manjushrimitra (Tạng: Jampal Shenyen, tức Văn Thù Hữu) – một trong những đạo sư cổ xưa của truyền thừa Dzogchen. Ngài là đệ tử của Tổ Garab Dorje và là đạo sư chính yếu của Ngài Shri Singha. Ngài nổi tiếng vì đã sắp xếp các giáo lý Dzogchen thành ba bộ: bộ Tâm (Semde), bộ Hư Không (Longde) và bộ Chỉ Dẫn Cốt Tủy (Mengakde). Di chúc cuối cùng của Ngài, điều mà Ngài trao cho Shri Sinha trước khi đắc thân cầu vồng, được gọi là Sáu Kinh Nghiệm Thiền Định.

[3] Về Ngài Ma Rinchen Chok, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a36080/2/tieu-su-van-tat-duc-ma-rinchen-chok.

[4] Theo Rigpawiki, Rongton Sheja Kunrik hay Shakya Gyaltsen (1367-1449) – một trong những học giả vĩ đại nhất của trường phái Sakya và thực sự trong cả lịch sử Tây Tạng, vị mà giống như đạochính yếu của Ngài – Đức Yakton Sangye Pal, đặc biệt nổi tiếng về việc làm chủ giáo lý Bát Nhã và bản văn Hiện Quán Trang Nghiêm [Abhisamayalankara]. Ngài đã giảng dạy tại Sangphu Neuthog vĩ đại và thành lập Tu viện Nalendra của mình vào năm 1436. Các đệ tử nổi tiếng nhất của Ngài là Shakya Choden và Gorampa Sonam Senge.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3864)
không phải là kết thúc của cuộc sống, bởi vẫn còn tái sinh sau khi chết.
(Xem: 3374)
Đừng bao giờ lo âu hay sợ hãi về cái chết. Thay vào đó, hãy cố gắng cải thiện tâm trạng và trưởng dưỡng một nhận thức hoan hỷ rõ ràng
(Xem: 4136)
Sống và chết đều vô cùng quan trọng với mọi người bởi chúng là số phận. Không ai có thể từ chối hay tránh khổ đau liên quan đến sinh, lão, bệnh, tử và cuộc sống thực sự.
(Xem: 4227)
Vài người nghĩ rằng Phật giáo Kim Cương thừa rất huyền bí. Điều này là bởi họ thiếu một sự hiểu về hệ thống tư tưởngthực hành của Kim Cương thừa.
(Xem: 2791)
Các hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai; những thủ lĩnh phổ quát của đại dương đàn trànggia đình Phật;
(Xem: 3231)
Tất cả hữu tình chúng sinh trong tam giới của sự tồn tại đều trong tù ngục luân hồichúng ta đều trải qua khổ đau của luân hồi.
(Xem: 3326)
Về điều mà chúng ta sắp lắng nghe, Đức Phật đã ban vô số giáo lý. Nếu chúng ta muốn cô đọng những giáo lý này thì có những giáo lý của thừa căn bản và những giáo lý của thừa đặc biệt.
(Xem: 3244)
Trì Minh Vương hay Vidyadhara tối thắng Rigdzin Jigme Lingpa (1729-98) sinh ở Yoru, Tây Tạng trong một vùng vô cùng khiêm nhường.
(Xem: 3383)
Đèn Soi Nẻo Giác (A Lamp for the Path to Enlightenment), do ngài Atisha vĩ đại (Dipamkara Shrijnana) sáng tác tại Tây Tạng.
(Xem: 4354)
Ngày nọ, Đạo Sư đang an trụ trong sự chứng ngộ khi Ngài diện kiến Đức Kim Cương Tát Đỏa và thọ nhận lời tiên tri:
(Xem: 3384)
Ở Xứ Tuyết Tây Tạng, những giáo lý của Đức Phật được trao truyền trong nhiều dòng truyền thừa.
(Xem: 9408)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 6934)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 7726)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 9289)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 4454)
Kính lễ Đấng Trang Nghiêm Kim Cang Tát Đỏa. “Tất cả mọi pháp đều không có tự tánh. (Năm) uẩn (skandas), (mười tám) giới (dhatus)...
(Xem: 5129)
Kinh Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân nói rằng, theo giáo lý của Đức Phật, có hai kiểu người không làm ác: kiểu đầu tiên là những người...
(Xem: 13348)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 11203)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11510)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10818)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 9256)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 13708)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14797)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10434)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10522)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9810)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 9861)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10085)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10390)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10517)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10440)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10003)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9727)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13401)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16187)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13358)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 9523)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 10473)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 12260)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11794)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10611)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13244)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9898)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 12169)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 11636)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 11886)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14253)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 10882)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 15274)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17600)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14887)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16413)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 14509)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 14412)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18203)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 18372)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 12734)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13317)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 18515)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant