Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất

06 Tháng Mười Hai 202119:51(Xem: 1601)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất

Samten Chhosphel[1]
Pema Jyana


cam tho1

 Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một. Cha mẹ Ngài thuộc về một bộ tộc cao quý, quyền uy ở Uru, Penpo tên là Depa Tonpo, những vị cai quản nhiều gia đình trong vùng.

Theo tiểu sử, các tiền thân của Ngài bao gồm nhiều đạo sư Ấn ĐộTây Tạng, chẳng hạn Tôn giả Văn Thù Hữu (Manjushrimitra)[2], vua Pháp A Dục, Kamalashila (713-763), Lhase Mutik Tsepo, một trong những tu sĩ đầu tiên ở Tây Tạng – Ma Rinchen Chok[3], trưởng lão Kagyu – Milarepa (1040-1123), Rongton Sheja Kunrik (1367-1449)[4] và Drikung Rinchen Phuntsok (1509-1557).

Mười ba tuổi, Ngài trốn khỏi nhà và đến học viện lớn tại Tu viện Ketsel, một trung tâm nổi tiếng về các nghiên cứu biện chứng trong truyền thống Sakya. Vị trụ trì ở đó đã trao cho Ngài các giới luật tu sĩ căn bản (Rabjung Dompa). Ngài đã học thuộc nhiều bản văn quan trọng trong chương trình chính yếu của Tu viện, bao gồm những lời cầu nguyện, nghi thức và đoạn kệ gốc và sau đó, nghiên cứu tuyển tập bảy bản văn Pramana của lô-gic và nhận thức luận Phật giáo. Ngài tiếp tục nghiên cứu với nhiều đạo sư tại các Tu viện Sakya khác nhau, bao gồm Palkhor Chode ở Gyantse, Tanak Thubten Ling, Serdokchen và Ngor. Đức Sakya Gongma, có lẽ là Ducho Labrangpa Jamgon Sonam Wangchuk (1638-1685) đã nhiều lần tán thán Ngài về sự uyên bác trong truyền thống.

Tại Sangphu, Ngài tiếp tục nghiên cứu triết học Pramana trong một giai đoạn dài. Ngài tập trung vào nhận thức luận và cuối cùng, trở thành một học giảthẩm quyền về chủ đề này. Ngài đã tham gia vào các cuộc thi truyền thống về kỹ năng tranh luậnchứng tỏ kiến thức của bản thân về Pramana tại các Tu viện Sangphu, Rato và Dreyul Ketsel, tất cả đều nổi tiếng về sự nghiên cứu về nhận thức luận. Kết quả là, Ngài nhận được danh hiệu Rabjampa, nghĩa là “vô lượng”.

Ngài cũng nghiên cứu với nhiều đạo sư xuất chúng từ truyền thống Geluk tại ba Tu viện lớn – Sera, Drepung và Ganden, và Ngài đã nghiên cứu các Mật điển theo truyền thống Geluk tại cả Học viện Gyurme và Gyuto ở Lhasa, bao gồm Mật Tập, Thắng Lạc, Đại Oai Đức, và cũng trở nên nổi tiếng trong những học giả Geluk.

Ngài sau đó đóng vai trò là vị hỗ trợ cho Pabongkhapa Jamyang Drakpa, một vị phụ tá thân cận của Đức Dalai Lama thứ Năm – Ngawang Lobzang Gyatso (1617-1682). Ngài thọ nhiều giáo lý từ cả Ngài Jamyang Drakpa và chính Đức Dalai Lama.

Có lần, Ngài Jamyang Drakpa đã tiên đoán rằng mặc dù Ngài Tenpe Gyaltsen vốn đã là một chuyên gia về các Mật điển của Tân Dịch (Sarma) [các bản văn Mật thừa được dịch sang Tạng ngữ từ thế kỷ mười một trở về sau], sự thành công trong tương lai của Ngài phụ thuộc vào việc nghiên cứuthực hành các Mật điển cổ xưa của trường phái Nyingma (Cựu Dịch) [các bản văn Mật thừa được dịch sang Tạng ngữ từ thế kỷ bảy đến thế kỷ mười), đặc biệthệ thống Đại Viên Mãn (Dzogchen).

Khi ấy, Đức Dzogchen Drubwang thứ Nhất – Pema Rigdzin (1625-1697) đang ban những giáo lý Dzogchen cao cấp tại Yerpa Lhari, về phía Bắc, gần Lhasa. Hầu hết các quan chức chính phủ được bổ nhiệm trong chính quyền của Đức Dalai Lama thứ Năm, bao gồm cả Ngài Jamyang Drakpa, đều đang tham dự những giáo lý này. Ngài Tenpe Gyaltsen đã gia nhập cùng họ và chẳng bao lâu, Ngài trở thành học trò đứng đầu về sự hiểu và thành tựu tri kiếnthực hành Đại Viên Mãn. Nhờ đó, Ngài nhận được danh hiệu “Dzogchen Rabjampa” và trở thành một trong những đệ tử thân thiết nhất của Đức Dzogchen Drubwang Pema Rigdzin.

Theo chỉ dẫn từ Đức Dalai Lama thứ năm, Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã đồng hành với Ngài Dzogchen Drubwang trong một chuyến du hành đến Kham với tư cáchthị giả. Năm 1685, với sự hỗ trợ của vị vua thứ ba mươi bảy của Derge, Sangye Tenpa (khoảng 1638-1710), Ngài Tenpe Gyaltsen hỗ trợ Đức Pema Rigdzin thiết lập một ẩn thất gọi là Orgyen Samten Choling trong thung lũng Rudam Kyitram, về phía Đông Bắc của thủ phủ Derge. Tu viện dần dần phát triển và sau này trở thành một trong sáu trung tâm tu sĩ chính của truyền thống Nyingma, được biết đến là Tu viện Dzogchen.

Theo một lịch sử tu viện, vào năm 1690, khi bốn mươi mốt tuổi, Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã thành lập một Tu viện gọi là Shechen Orgyen Chodzong, bao gồm một nhà tu sĩ và sảnh đường chính, không xa với Dzogchen. Vị trụ trì đầu tiên tên là Pema Wangchuk, với biệt danh là “Lama Cười”. Người ta nói rằng chương trình ở đó nhấn mạnh vào cả nghiên cứuthực hành. Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã giảng dạy trong cả thời khóa mùa đông và mùa hè. Vào mùa hè, các học trò của Ngài thường lắng nghe và quán chiếu giáo lý về các bản văn nền tảng từ Tam Tạng. Vào mùa đông, họ thường thực hànhthiền định về giáo lý Mật thừa. Theo cách này, người ta nói rằng, họ đã noi theo truyền thống trước kia của việc hòa quyện nghiên cứuthực hành.

Lúc bắt đầu Tu viện, người ta thuật lại rằng Ngài Tenpe Gyaltsen đã tiên đoán rằng một “kho tàng Giáo Pháp” sẽ phát triển ở chính nơi đó; tuy nhiên, giáo lý sẽ đạt đến đỉnh cao nhất ở phía trước của một ngọn núi ở phía bên kia. Đức Rabjam thứ Hai – Gyurme Kunzang Namgyal (1713-1769) đã thành lập một Tu viện mở rộng của Shechen ở phía bên kia từ địa điểm ban đầu vào năm 1734 hay 1735. Chính tại nơi này, Tu viện cuối cùng phát triển thành Tu viện Shechen được biết đến ngày nay, một trong sáu trung tâm tu sĩ Nyingma chính yếuTây Tạng. Dựa trên việc thành lập Tu viện Shechen, Ngài sau này được biết đến là Đức Shechen Rabjam thứ Nhất.

Sau đó, vua của Derge đã cúng dường Ngài Tenpe Gyaltsen Tu viện Trasho Pomdrak, nơi vốn là trụ xứ của Đức Pomdrakpa Sonam Dorje (1170-1249), trưởng lão của truyền thừa Kagyu. Ngài đã sống vài năm trong một thiền thất mới xây dựng ở đó. Tuy nhiên, dường như vài tu sĩ ở đó không thích Ngài, hoài nghi Ngài về ý định biến Tu viện từ truyền thống Kagyu thành Nyingma. Người ta nói rằng bởi điều đó, Ngài Dzogchen Rabjampa rời Tu viện và chuyển đi nơi khác, thích giảng dạy cho các đệ tử bất bộ phái hơn.

Vào một thời điểm nhất định, Ngài Tenpe Gyaltsen quyết định rằng Ngài sẽ dành phần còn lại của cuộc đời để nhập thất và đã sống tại Ẩn thất Tsangrong Shardzong ở Drikung. Tuy nhiên, trong lúc thực hành, Ngài nghe tin đạo sư Dzogchen Drubwang viên tịch và đã nhanh chóng đến Rudam để gia nhập cùng với một vị khác trong những đệ tử thân thiết của Đức Dzogchen Drubwang – Dzogchen Ponlob Namkha Osel (vị qua đời năm 1726) để hoàn thành những tang lễ mở rộng cho đạo sư quá cố. Sau đấy, Ngài sống tại Tu viện Dzogchen, vô cùng tận tụy trong việc ban giáo lýquán đỉnh.

Ngài sau đó hỗ trợ Dzogchen Ponlob trong việc lựa chọn và xác định Đức Dzogchen Drubwang thứ Hai – Gyurme Thekchok Tendzin (1699-1758), vị đã sinh vào dòng dõi của những vị vua Mông Cổ Orod. Cùng nhau, họ đã đưa cậu bé về Tu viện Dzogchen, tấn phong, cử hành lễ thế phát và trao các danh hiệu Pema Wangchen và Pema Wangdrak.

Các đệ tử nổi tiếng nhất của Ngài Tenpe Gyaltsen bao gồm Đức Dzogchen Drubwang thứ Hai – Gyurme Thekchok Tendzin và Hor Rongpa Tsawa – Pema Wangchuk. Bên cạnh đó, Ngài được cho là có hai mươi lăm vị trì giữ truyền thừa, những vị chủ yếu tập trung vào Dzogchen, bao gồm Orgyen Samten, Pema Gyaltsen, Lama Dargye từ Luse, một vị Tokden từ Khardo tên Orgyen Tsultrim và Orgyen Kalzang từ Ling Ratak.

Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen viên tịch năm 1704, Mộc Thân của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười hai, khi năm mươi lăm tuổi. Một ngôi chùa xá lợi tưởng niệm Ngài đã được xây dựng tại Tu viện Dzogchen bởi các đệ tử. Dòng tái sinh của Ngài được biết đến là Shechen Rabjam.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/First-Shechen-Rabjam-bstan-pai-rgyal-mtshan/9213.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Samten Chhosphel nhận bằng Tiến sĩ từ CIHTS ở Ấn Độ, nơi ông ấy đóng vai trò là người đứng đầu Phòng Xuất Bản trong 26 năm. Ông có bằng Thạc sĩ về Biên Soạn & Xuất Bản từ Đại học Emerson, Boston. Hiện tại, ông là Giáo Sư Hỗ Trợ (Assistant Professor) tại Đại Học Thành Phố New York và Cộng tác viên Ngôn ngữĐại Học Columbia, New York.

[2] Theo Rigpawiki, Manjushrimitra (Tạng: Jampal Shenyen, tức Văn Thù Hữu) – một trong những đạo sư cổ xưa của truyền thừa Dzogchen. Ngài là đệ tử của Tổ Garab Dorje và là đạo sư chính yếu của Ngài Shri Singha. Ngài nổi tiếng vì đã sắp xếp các giáo lý Dzogchen thành ba bộ: bộ Tâm (Semde), bộ Hư Không (Longde) và bộ Chỉ Dẫn Cốt Tủy (Mengakde). Di chúc cuối cùng của Ngài, điều mà Ngài trao cho Shri Sinha trước khi đắc thân cầu vồng, được gọi là Sáu Kinh Nghiệm Thiền Định.

[3] Về Ngài Ma Rinchen Chok, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a36080/2/tieu-su-van-tat-duc-ma-rinchen-chok.

[4] Theo Rigpawiki, Rongton Sheja Kunrik hay Shakya Gyaltsen (1367-1449) – một trong những học giả vĩ đại nhất của trường phái Sakya và thực sự trong cả lịch sử Tây Tạng, vị mà giống như đạochính yếu của Ngài – Đức Yakton Sangye Pal, đặc biệt nổi tiếng về việc làm chủ giáo lý Bát Nhã và bản văn Hiện Quán Trang Nghiêm [Abhisamayalankara]. Ngài đã giảng dạy tại Sangphu Neuthog vĩ đại và thành lập Tu viện Nalendra của mình vào năm 1436. Các đệ tử nổi tiếng nhất của Ngài là Shakya Choden và Gorampa Sonam Senge.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21251)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22015)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16773)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 13304)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22703)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18902)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18367)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21517)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 19933)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13968)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14932)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 17135)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15803)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12887)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13044)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 22522)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 19257)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37443)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 17778)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14484)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19563)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14529)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 15829)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 29697)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 17682)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 18448)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 19824)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 19033)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18470)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20599)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19330)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18440)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 29694)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 21529)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 20731)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26226)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 51951)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 21708)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 34871)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 17167)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 17912)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19500)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 17406)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 30669)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19112)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 19440)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19667)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 19317)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 58627)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 19660)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 19032)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15025)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 32919)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17351)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19015)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 22855)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16538)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16378)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16366)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22833)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant