Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất

06 Tháng Mười Hai 202119:51(Xem: 1584)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất

Samten Chhosphel[1]
Pema Jyana


cam tho1

 Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một. Cha mẹ Ngài thuộc về một bộ tộc cao quý, quyền uy ở Uru, Penpo tên là Depa Tonpo, những vị cai quản nhiều gia đình trong vùng.

Theo tiểu sử, các tiền thân của Ngài bao gồm nhiều đạo sư Ấn ĐộTây Tạng, chẳng hạn Tôn giả Văn Thù Hữu (Manjushrimitra)[2], vua Pháp A Dục, Kamalashila (713-763), Lhase Mutik Tsepo, một trong những tu sĩ đầu tiên ở Tây Tạng – Ma Rinchen Chok[3], trưởng lão Kagyu – Milarepa (1040-1123), Rongton Sheja Kunrik (1367-1449)[4] và Drikung Rinchen Phuntsok (1509-1557).

Mười ba tuổi, Ngài trốn khỏi nhà và đến học viện lớn tại Tu viện Ketsel, một trung tâm nổi tiếng về các nghiên cứu biện chứng trong truyền thống Sakya. Vị trụ trì ở đó đã trao cho Ngài các giới luật tu sĩ căn bản (Rabjung Dompa). Ngài đã học thuộc nhiều bản văn quan trọng trong chương trình chính yếu của Tu viện, bao gồm những lời cầu nguyện, nghi thức và đoạn kệ gốc và sau đó, nghiên cứu tuyển tập bảy bản văn Pramana của lô-gic và nhận thức luận Phật giáo. Ngài tiếp tục nghiên cứu với nhiều đạo sư tại các Tu viện Sakya khác nhau, bao gồm Palkhor Chode ở Gyantse, Tanak Thubten Ling, Serdokchen và Ngor. Đức Sakya Gongma, có lẽ là Ducho Labrangpa Jamgon Sonam Wangchuk (1638-1685) đã nhiều lần tán thán Ngài về sự uyên bác trong truyền thống.

Tại Sangphu, Ngài tiếp tục nghiên cứu triết học Pramana trong một giai đoạn dài. Ngài tập trung vào nhận thức luận và cuối cùng, trở thành một học giảthẩm quyền về chủ đề này. Ngài đã tham gia vào các cuộc thi truyền thống về kỹ năng tranh luậnchứng tỏ kiến thức của bản thân về Pramana tại các Tu viện Sangphu, Rato và Dreyul Ketsel, tất cả đều nổi tiếng về sự nghiên cứu về nhận thức luận. Kết quả là, Ngài nhận được danh hiệu Rabjampa, nghĩa là “vô lượng”.

Ngài cũng nghiên cứu với nhiều đạo sư xuất chúng từ truyền thống Geluk tại ba Tu viện lớn – Sera, Drepung và Ganden, và Ngài đã nghiên cứu các Mật điển theo truyền thống Geluk tại cả Học viện Gyurme và Gyuto ở Lhasa, bao gồm Mật Tập, Thắng Lạc, Đại Oai Đức, và cũng trở nên nổi tiếng trong những học giả Geluk.

Ngài sau đó đóng vai trò là vị hỗ trợ cho Pabongkhapa Jamyang Drakpa, một vị phụ tá thân cận của Đức Dalai Lama thứ Năm – Ngawang Lobzang Gyatso (1617-1682). Ngài thọ nhiều giáo lý từ cả Ngài Jamyang Drakpa và chính Đức Dalai Lama.

Có lần, Ngài Jamyang Drakpa đã tiên đoán rằng mặc dù Ngài Tenpe Gyaltsen vốn đã là một chuyên gia về các Mật điển của Tân Dịch (Sarma) [các bản văn Mật thừa được dịch sang Tạng ngữ từ thế kỷ mười một trở về sau], sự thành công trong tương lai của Ngài phụ thuộc vào việc nghiên cứuthực hành các Mật điển cổ xưa của trường phái Nyingma (Cựu Dịch) [các bản văn Mật thừa được dịch sang Tạng ngữ từ thế kỷ bảy đến thế kỷ mười), đặc biệthệ thống Đại Viên Mãn (Dzogchen).

Khi ấy, Đức Dzogchen Drubwang thứ Nhất – Pema Rigdzin (1625-1697) đang ban những giáo lý Dzogchen cao cấp tại Yerpa Lhari, về phía Bắc, gần Lhasa. Hầu hết các quan chức chính phủ được bổ nhiệm trong chính quyền của Đức Dalai Lama thứ Năm, bao gồm cả Ngài Jamyang Drakpa, đều đang tham dự những giáo lý này. Ngài Tenpe Gyaltsen đã gia nhập cùng họ và chẳng bao lâu, Ngài trở thành học trò đứng đầu về sự hiểu và thành tựu tri kiếnthực hành Đại Viên Mãn. Nhờ đó, Ngài nhận được danh hiệu “Dzogchen Rabjampa” và trở thành một trong những đệ tử thân thiết nhất của Đức Dzogchen Drubwang Pema Rigdzin.

Theo chỉ dẫn từ Đức Dalai Lama thứ năm, Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã đồng hành với Ngài Dzogchen Drubwang trong một chuyến du hành đến Kham với tư cáchthị giả. Năm 1685, với sự hỗ trợ của vị vua thứ ba mươi bảy của Derge, Sangye Tenpa (khoảng 1638-1710), Ngài Tenpe Gyaltsen hỗ trợ Đức Pema Rigdzin thiết lập một ẩn thất gọi là Orgyen Samten Choling trong thung lũng Rudam Kyitram, về phía Đông Bắc của thủ phủ Derge. Tu viện dần dần phát triển và sau này trở thành một trong sáu trung tâm tu sĩ chính của truyền thống Nyingma, được biết đến là Tu viện Dzogchen.

Theo một lịch sử tu viện, vào năm 1690, khi bốn mươi mốt tuổi, Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã thành lập một Tu viện gọi là Shechen Orgyen Chodzong, bao gồm một nhà tu sĩ và sảnh đường chính, không xa với Dzogchen. Vị trụ trì đầu tiên tên là Pema Wangchuk, với biệt danh là “Lama Cười”. Người ta nói rằng chương trình ở đó nhấn mạnh vào cả nghiên cứuthực hành. Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã giảng dạy trong cả thời khóa mùa đông và mùa hè. Vào mùa hè, các học trò của Ngài thường lắng nghe và quán chiếu giáo lý về các bản văn nền tảng từ Tam Tạng. Vào mùa đông, họ thường thực hànhthiền định về giáo lý Mật thừa. Theo cách này, người ta nói rằng, họ đã noi theo truyền thống trước kia của việc hòa quyện nghiên cứuthực hành.

Lúc bắt đầu Tu viện, người ta thuật lại rằng Ngài Tenpe Gyaltsen đã tiên đoán rằng một “kho tàng Giáo Pháp” sẽ phát triển ở chính nơi đó; tuy nhiên, giáo lý sẽ đạt đến đỉnh cao nhất ở phía trước của một ngọn núi ở phía bên kia. Đức Rabjam thứ Hai – Gyurme Kunzang Namgyal (1713-1769) đã thành lập một Tu viện mở rộng của Shechen ở phía bên kia từ địa điểm ban đầu vào năm 1734 hay 1735. Chính tại nơi này, Tu viện cuối cùng phát triển thành Tu viện Shechen được biết đến ngày nay, một trong sáu trung tâm tu sĩ Nyingma chính yếuTây Tạng. Dựa trên việc thành lập Tu viện Shechen, Ngài sau này được biết đến là Đức Shechen Rabjam thứ Nhất.

Sau đó, vua của Derge đã cúng dường Ngài Tenpe Gyaltsen Tu viện Trasho Pomdrak, nơi vốn là trụ xứ của Đức Pomdrakpa Sonam Dorje (1170-1249), trưởng lão của truyền thừa Kagyu. Ngài đã sống vài năm trong một thiền thất mới xây dựng ở đó. Tuy nhiên, dường như vài tu sĩ ở đó không thích Ngài, hoài nghi Ngài về ý định biến Tu viện từ truyền thống Kagyu thành Nyingma. Người ta nói rằng bởi điều đó, Ngài Dzogchen Rabjampa rời Tu viện và chuyển đi nơi khác, thích giảng dạy cho các đệ tử bất bộ phái hơn.

Vào một thời điểm nhất định, Ngài Tenpe Gyaltsen quyết định rằng Ngài sẽ dành phần còn lại của cuộc đời để nhập thất và đã sống tại Ẩn thất Tsangrong Shardzong ở Drikung. Tuy nhiên, trong lúc thực hành, Ngài nghe tin đạo sư Dzogchen Drubwang viên tịch và đã nhanh chóng đến Rudam để gia nhập cùng với một vị khác trong những đệ tử thân thiết của Đức Dzogchen Drubwang – Dzogchen Ponlob Namkha Osel (vị qua đời năm 1726) để hoàn thành những tang lễ mở rộng cho đạo sư quá cố. Sau đấy, Ngài sống tại Tu viện Dzogchen, vô cùng tận tụy trong việc ban giáo lýquán đỉnh.

Ngài sau đó hỗ trợ Dzogchen Ponlob trong việc lựa chọn và xác định Đức Dzogchen Drubwang thứ Hai – Gyurme Thekchok Tendzin (1699-1758), vị đã sinh vào dòng dõi của những vị vua Mông Cổ Orod. Cùng nhau, họ đã đưa cậu bé về Tu viện Dzogchen, tấn phong, cử hành lễ thế phát và trao các danh hiệu Pema Wangchen và Pema Wangdrak.

Các đệ tử nổi tiếng nhất của Ngài Tenpe Gyaltsen bao gồm Đức Dzogchen Drubwang thứ Hai – Gyurme Thekchok Tendzin và Hor Rongpa Tsawa – Pema Wangchuk. Bên cạnh đó, Ngài được cho là có hai mươi lăm vị trì giữ truyền thừa, những vị chủ yếu tập trung vào Dzogchen, bao gồm Orgyen Samten, Pema Gyaltsen, Lama Dargye từ Luse, một vị Tokden từ Khardo tên Orgyen Tsultrim và Orgyen Kalzang từ Ling Ratak.

Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen viên tịch năm 1704, Mộc Thân của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười hai, khi năm mươi lăm tuổi. Một ngôi chùa xá lợi tưởng niệm Ngài đã được xây dựng tại Tu viện Dzogchen bởi các đệ tử. Dòng tái sinh của Ngài được biết đến là Shechen Rabjam.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/First-Shechen-Rabjam-bstan-pai-rgyal-mtshan/9213.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Samten Chhosphel nhận bằng Tiến sĩ từ CIHTS ở Ấn Độ, nơi ông ấy đóng vai trò là người đứng đầu Phòng Xuất Bản trong 26 năm. Ông có bằng Thạc sĩ về Biên Soạn & Xuất Bản từ Đại học Emerson, Boston. Hiện tại, ông là Giáo Sư Hỗ Trợ (Assistant Professor) tại Đại Học Thành Phố New York và Cộng tác viên Ngôn ngữĐại Học Columbia, New York.

[2] Theo Rigpawiki, Manjushrimitra (Tạng: Jampal Shenyen, tức Văn Thù Hữu) – một trong những đạo sư cổ xưa của truyền thừa Dzogchen. Ngài là đệ tử của Tổ Garab Dorje và là đạo sư chính yếu của Ngài Shri Singha. Ngài nổi tiếng vì đã sắp xếp các giáo lý Dzogchen thành ba bộ: bộ Tâm (Semde), bộ Hư Không (Longde) và bộ Chỉ Dẫn Cốt Tủy (Mengakde). Di chúc cuối cùng của Ngài, điều mà Ngài trao cho Shri Sinha trước khi đắc thân cầu vồng, được gọi là Sáu Kinh Nghiệm Thiền Định.

[3] Về Ngài Ma Rinchen Chok, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a36080/2/tieu-su-van-tat-duc-ma-rinchen-chok.

[4] Theo Rigpawiki, Rongton Sheja Kunrik hay Shakya Gyaltsen (1367-1449) – một trong những học giả vĩ đại nhất của trường phái Sakya và thực sự trong cả lịch sử Tây Tạng, vị mà giống như đạochính yếu của Ngài – Đức Yakton Sangye Pal, đặc biệt nổi tiếng về việc làm chủ giáo lý Bát Nhã và bản văn Hiện Quán Trang Nghiêm [Abhisamayalankara]. Ngài đã giảng dạy tại Sangphu Neuthog vĩ đại và thành lập Tu viện Nalendra của mình vào năm 1436. Các đệ tử nổi tiếng nhất của Ngài là Shakya Choden và Gorampa Sonam Senge.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 182)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 184)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 309)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 651)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 660)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 775)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 751)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1053)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1276)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1088)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2372)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1764)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3467)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 2528)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2309)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 1951)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2911)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 1978)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2343)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1763)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1654)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2382)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1461)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2780)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1821)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3739)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2072)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1926)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2461)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4418)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1870)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2779)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1603)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2498)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2593)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 1996)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3571)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3021)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 1955)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 1984)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2313)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2020)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1857)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2420)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2078)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2122)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2529)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3601)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2171)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3281)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 2922)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5199)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2575)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3858)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5263)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3810)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2719)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2459)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2669)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
(Xem: 3658)
Với những vị nhấn mạnh duy nhất vào việc trưởng dưỡng Bồ đề tâm trong cuộc đời, lời khuyên thích hợp cho họ khi tiến gần đến cái chết là nương tựa năm sức mạnh để định hướng lối đi của họ đến đời sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant