Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tết Bính Thân - Nói Chuyện Khỉ

12 Tháng Hai 201606:35(Xem: 12342)
Tết Bính Thân - Nói Chuyện Khỉ

TẾT BÍNH THÂN - NÓI CHUYỆN KHỈ

Thiện Ý

Tết Bính Thân - Nói Chuyện Khỉ


Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.   Mỗi khi chúng ta phàn nànđịnh tâm không được thì mình thường nghe quý Thầy nói về sự lăng xăng, náo động của tâm thức qua câu: ‘tâm viên, ý mã’ (tâm như khỉ, ý như ngựa).  Khi nói đến tâm chúng ta cũng nhớ đến mẩu chuyện Phật gạn hỏi ngài A Nan tâm ở đâu trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Ngài A Nan đã trả lời là tâm ở 7 chỗ khác nhau từ: 1) trong thân, 2) ngoài thân, 3) núp sau con mắt, 4) nhắm mắt thấy tối là tâm, 5) suy nghĩ là tâm, 6) tâm ở chặng giữa, và 7) tâm là cái không dính mắc vào đâu cả.  Nhưng Phật đều bác bỏ hết cả. 

Thực ra, tâm không thể nào tồn tại nếu đối tượng của nó không có mặt.  Sự tương tức, tương diệt của tâm thức phải qua sự đối đãi của chủ thể (tâm) và đối tượng (vật).  Tâm như khỉ, vì khi đối tượng hiện khởi, qua tiếp xúc trung gian của sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý), luôn thay đổi, biến chuyển, nhảy nhót không ngừng nên tâm thức cũng theo đó mà biến chuyển, đổi thay.  Bản chất của tâm cũng như sóng và nước.  Nước nổi sóng nên gọi là sóng.  Nhưng thực chất là sóng từ nước mà có. Cho nên, bản chất của sóng là nước. 

Cũng như bản chất của tâm vốn là thanh tịnh.  Nhưng vì do lăng xăng, vọng động quá nhiều nên tâm đã không còn nhận thấy bản chất thật sự của mình! Như câu chuyện, một hôm đức Phật và các Thầy tỳ khưu đi khất thực. Sau khi Phật dùng cơm xong và ngồi nghỉ tại một gốc cây bên bờ sông. Thầy A Nan bèn ra bến sông múc nước cho Phật uống, nhưng tại bến sông vừa có một đàn bò đi qua nên nước tại đây đều bị đục và dơ, không thể uống được. Thầy trở về thưa với Phật về chuyện nước bị dơ. Phật bảo Thầy hãy ngồi chờ. Sau một khoảng thời gian, chất dơ lắng xuống, Thầy ra sông múc nước đem về cho Phật uống. Nhân đó Phật dạy: Tâm ta cũng vậy. Khi tâm bị vẩn đục, nhiễm ô, đừng khuấy động, đừng nôn nóng. Hãy bình tỉnh quán sát chúng. Sau một thời gian, tâm sẽ tự động trong sạch trở lại. Như nước trong sông kia bị vẩn đục, nếu để yên những cặn dơ sẽ dần lắng xuống.    
    

Ở Nhật, có nhiều đền với bức phù điêu tạc hình ba con khỉ. Con thứ nhất lấy hai tay che hai mắt lại, con thứ hai bịt hai lổ tai thật kỷ, con thứ ba dùng hai bàn tay bụm miệng lại.  Một hình thức để diễn đạt ba câu châm ngôn: "See no evils, hear no evils, talk no evils" (Không thấy điều xấu, không nghe chuyện xấu, không nói lời xấu.) Còn sở dĩ, dùng hình tượng con khỉ mà không phải là con thú khác là vì khỉ thường hay bắt chước làm theo những gì nó trông thấy.  Trong thành ngữ của văn hóa Mỹ cũng có câu nói: “monkey see, monkey do” (khỉ thấy, khỉ làm theo) là ám chỉ theo ý trên.

Trong kinh Mi Tiên Vấn Đáp do Hòa Thượng Giới Nghiêm dịch, câu hỏi thứ 179 - Về Con Gà, có đoạn viết: “Các vị tỳ khưu… khi trì bình khất thực trong xóm làng, vào thành phố... tâm các thầy rất tỉnh thức, mắt các thầy rất sáng nhưng cũng phải làm như đui, không thấy, không biết gì hết. Khi giao tiếp với ngũ trần: sắc tướng, âm thanh, khí, vị v.v... các vị tỳ khưu giả đui, giả điếc, giả câm v.v... Thật đúng như Đức Đại Ca-chiên-diên (Màhà Kaccàyana) đã dạy: ‘Hành giả tu tập, có con mắt sáng cũng làm như mờ, có lỗ tai tốt cũng làm như điếc, có miệng lưỡi thiện thuyết cũng làm như câm; có sức mạnh, dũng cảm cũng nên làm như kẻ yếu đuối ; có sự việc gì xẩy ra thì thân tâm đều nằm ngủ yên lặng, như mẹ ru con ngủ vậy.’ ” Không biết có sự trùng hợp nào giữa hình tượng ba con khỉ nói trên và lời dạy trong kinh Mi Tiên Vấn đáp hay không? 

Nhưng về ý nghĩa, thật rõ ràng là có liên hệ với nhau.  Không thấy, không nghe, không nói là một hình thức tu tập để tâm không bị dính mắc, không bị mắc kẹt, đặc biệt là vào những việc tiêu cực, xấu xa, hay bất tịnh. Giống như câu chuyện một người tài xế lái xe taxi tại thành phố New York.  Một hôm đang đón khách tại một con đường nọ.  Sau khi đón khách xong, anh ta ra dấu xin được lái ra.  Bỗng có một chiếc xe chạy ẩu, lạng nhanh giành đường, suýt chút nữa là đụng xe taxi của anh.  Người lái xe ẩu kia, thay vì xin lỗi, thốt lời thóa mạ, chưởi rủa anh tài xế xe taxi thậm tệ.  Nhưng anh tài xế taxi vẫn bình tỉnh, vẫy tay xin lỗi, rồi chạy đi.  Người khách đi xe kinh ngạc, hỏi anh tại sao lại bình thản như vậy!  Anh tươi cười trả lời: ‘Tôi lái xe taxi đã mười năm rồi, và ở đây có rất nhiều xe rác lắm.  Nếu mình không biết bịt mắt, che tai, không nghe, không thấy thì mình sẽ bị họ đỗ rác vào mình. Có lợi ích gì đâu mà phải mang rác của kẻ khác!’

Lan man về chuyện khỉ, vượn thì lại nhớ đã đọc ở đâu đó thuật bẫy khỉ độc đáo của một số nơi trên thế giới.  Nói chung, muốn bắt khỉ, người ta dùng một trái dừa để nguyên vỏ và sọ, chỉ khoét một lổ, vừa đủ lớn cho bàn tay của khỉ vào lọt. Trong ruột dừa người ta trộn những thức ăn mềm và thơm ngon mà khỉ ưa thích như chuối, đường, mía, v.v... Thợ săn mang quả dừa này đến nơi có nhiều khỉ. Họ xích quả dừa vào gốc cây rồi bỏ đi .

Thấy vắng người, bọn khỉ kéo nhau đến chỗ có quả dừa, đi chung quanh xem xét tỉ mỉ mọi sự vật. Khi không có gì khả nghi chúng mới chuyển sang trắc nghiệm quả dừa. Nhận thấy mùi thức ăn phát ra từ bên trong ruột quả dừa, liền thay phiên nhau dòm vào.  Khi thấy mọi thứ đều an toàn, một con thử thò tay vào nắm lấy thức ăn. Bỗng nó la lên giãy nảy vì không thể rút tay ra được. Cả bọn thất kinh liền xúm nhau vào cứu bạn.  Đứa thì kéo chân con khỉ mắc nạn, đứa thì kéo tay, đứa thì nắm lấy quả dừa cố gắng kéo ra, đứa thì cắn quả dừa, níu dây xích v.v...Nhưng tất cả đều vô vọng, bỡi vì con khỉ do bản năng tham lam, quyết không thả nắm tay ra. Sau một lúc cố gắng vô ích, bọn khỉ chán nãn, chúng bỏ con mắc bẩy, đang lăn lộn kêu khóc. Chúng tản mạn khắp nơi, đứa lên cây, đứa kêu hú, đứa từ xa nhìn đến ái ngại, thương xót. Rồi thợ săn đến, tay dắt chó, tay cầm lưới, gậy gộc, v.v...Họ trói gô con khỉ bỏ vào lồng, đem đi.  Rồi trò cũ lại tái diễn, những con khỉ khác lại tiếp tục đưa tay vào cho mắc bẩy .

Xét câu chuyện trên, con khỉ sở dĩ lâm nạn là do chính nó đã không chịu buông nắm tay ra, nên loài người dựa theo tính năng đó mà chế ra cái bẩy để bắt chúng. Vậy nếu con khỉ có trí khôn, thì nên xét lại mà tự trách mình hơn là oán trách số phận. Phật dạy trong Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) thì tham dục, khao khát (tanha) là nguồn gốc của khổ đau. Chúng ta ai cũng có bản năng tham dục là vì bản tính sinh tồn để bảo vệ thân xác và tính mạng của mình, nên muốn từ bỏ nó thật là khó khăn và gian nan.  Thế nên, muốn trị căn bệnh tham dục này thì phải uống liều thuốc buông xả.

Buông xả bắt đầu bằng bố thí, học cách cho ra, chớ không muốn ôm vào. Muốn có được diệu dược buông xả chúng ta phải học và thực hànhSở dĩ cần phải học buông xảbản tính này vốn không có trong ta. Nó đi ngược lại bản tính sinh tồn.  Khi mình bố thí hay cho ra chúng ta bắt đầu rộng mở trái tim, hay tấm lòng của mình.  Trái tim càng rộng mở thì chúng ta càng có thể xả bỏ những ích kỷ, tị hiềm, âu lo, phiền muộn.  Tất cả những thứ tiêu cực này đều do tham dục mà ra.

Nói chuyện khỉ mà quên chuyện Tề thiên Đại thánh là một thiếu sót lớn.  Chúng ta, những người đã từng say sưa theo dõi chuyện Tôn Ngộ Không đại phá các động yêu ma, quỷ quái, dù biết đây là một chuyện hư cấu của Ngô Thừa Ân, ai cũng công nhận sức hấp dẫnlôi cuốn của chuyện Tây Du Ký này. Nhưng gần đây, theo giáo sư Hà Văn Kiệt, trưởng nhóm nghiên cứu, Tôn Ngộ Không thực chất là một người đàn ông có thật, tên là Thạch Bàn Đà, quê tại thành Tiên Dương, người dân tộc Hồ. Ông có ngoại hình xấu xí, thô kệch, kỳ quái, nên có biệt danh là "Hầu hình nhân". Tuy nhiên, người dân trong vùng ai cũng yêu quý Thạch Bàn Đà, bởi ông tính tình thực thà, thông minh nhanh nhẹn, võ nghệ cao cường, thường hay cứu mạng dân lành, diệt trừ thú dữ. Vào năm 629, khi Đường Tăng dừng chân tại vùng Tiên Dương, biết tin Huyền Trang đang giảng kinh, người đàn ông xấu xí này liền tìm tới nghe, rồi bị cảm hóa, thấm dần tư tưởng nhà Phật. Ông một người một ngựa, tự nguyện tháp tùng Đường Tăng tới Tây Thiên, cùng sư phụ vượt mọi gian nan, hiểm trở trên đường lấy kinh. (theo Bách khoa toàn thư mở - Wikipedia)

Dù Tôn Ngộ Không là nhân vật thực hay hư cấu, chúng ta ai cũng yêu thích anh chàng khỉ này, dù tính tình nóng nảy nhưng rất can đảm, ngay thẳng, và thật thà, một bản tính rất là ‘người’.  Chúng ta thấy một cái gì đó trong ta qua hình tượng chú khỉ Tôn Ngộ Không, kiêu ngạo, điên rồ, có khi ngáo ộp, nhưng không gian trá, điêu ngoa.  Làm người, ai trong chúng ta cũng đều có những đặc tính tốt và xấu, nhưng nếu mình biết phát huy những cá tính tốt và không cố tình dưỡng nuôi những cá tính xấu thì mình có khác gì anh chàng Tôn Ngộ Không mà mình yêu thích đâu!

                                                                                Thiện Ý

                                                             (trước thềm xuân Bính Thân, 2016)   

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11045)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12528)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11037)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31728)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11644)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
(Xem: 10503)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10122)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20524)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 13785)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15095)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 15285)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12810)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15013)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 14556)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 19853)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 20264)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 21570)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 27378)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20247)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22996)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18878)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16309)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17891)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20922)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17334)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14448)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 15983)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17449)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21948)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15085)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13475)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14348)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15361)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14960)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12674)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13325)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27369)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12485)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13168)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 12375)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15378)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12848)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12177)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21606)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11259)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 15036)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14920)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46169)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 11009)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 13400)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 19939)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14368)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13470)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 13364)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13652)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 13163)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13040)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13377)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13263)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant