Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tết Bính Thân - Nói Chuyện Khỉ

12 Tháng Hai 201606:35(Xem: 12354)
Tết Bính Thân - Nói Chuyện Khỉ

TẾT BÍNH THÂN - NÓI CHUYỆN KHỈ

Thiện Ý

Tết Bính Thân - Nói Chuyện Khỉ


Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.   Mỗi khi chúng ta phàn nànđịnh tâm không được thì mình thường nghe quý Thầy nói về sự lăng xăng, náo động của tâm thức qua câu: ‘tâm viên, ý mã’ (tâm như khỉ, ý như ngựa).  Khi nói đến tâm chúng ta cũng nhớ đến mẩu chuyện Phật gạn hỏi ngài A Nan tâm ở đâu trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Ngài A Nan đã trả lời là tâm ở 7 chỗ khác nhau từ: 1) trong thân, 2) ngoài thân, 3) núp sau con mắt, 4) nhắm mắt thấy tối là tâm, 5) suy nghĩ là tâm, 6) tâm ở chặng giữa, và 7) tâm là cái không dính mắc vào đâu cả.  Nhưng Phật đều bác bỏ hết cả. 

Thực ra, tâm không thể nào tồn tại nếu đối tượng của nó không có mặt.  Sự tương tức, tương diệt của tâm thức phải qua sự đối đãi của chủ thể (tâm) và đối tượng (vật).  Tâm như khỉ, vì khi đối tượng hiện khởi, qua tiếp xúc trung gian của sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý), luôn thay đổi, biến chuyển, nhảy nhót không ngừng nên tâm thức cũng theo đó mà biến chuyển, đổi thay.  Bản chất của tâm cũng như sóng và nước.  Nước nổi sóng nên gọi là sóng.  Nhưng thực chất là sóng từ nước mà có. Cho nên, bản chất của sóng là nước. 

Cũng như bản chất của tâm vốn là thanh tịnh.  Nhưng vì do lăng xăng, vọng động quá nhiều nên tâm đã không còn nhận thấy bản chất thật sự của mình! Như câu chuyện, một hôm đức Phật và các Thầy tỳ khưu đi khất thực. Sau khi Phật dùng cơm xong và ngồi nghỉ tại một gốc cây bên bờ sông. Thầy A Nan bèn ra bến sông múc nước cho Phật uống, nhưng tại bến sông vừa có một đàn bò đi qua nên nước tại đây đều bị đục và dơ, không thể uống được. Thầy trở về thưa với Phật về chuyện nước bị dơ. Phật bảo Thầy hãy ngồi chờ. Sau một khoảng thời gian, chất dơ lắng xuống, Thầy ra sông múc nước đem về cho Phật uống. Nhân đó Phật dạy: Tâm ta cũng vậy. Khi tâm bị vẩn đục, nhiễm ô, đừng khuấy động, đừng nôn nóng. Hãy bình tỉnh quán sát chúng. Sau một thời gian, tâm sẽ tự động trong sạch trở lại. Như nước trong sông kia bị vẩn đục, nếu để yên những cặn dơ sẽ dần lắng xuống.    
    

Ở Nhật, có nhiều đền với bức phù điêu tạc hình ba con khỉ. Con thứ nhất lấy hai tay che hai mắt lại, con thứ hai bịt hai lổ tai thật kỷ, con thứ ba dùng hai bàn tay bụm miệng lại.  Một hình thức để diễn đạt ba câu châm ngôn: "See no evils, hear no evils, talk no evils" (Không thấy điều xấu, không nghe chuyện xấu, không nói lời xấu.) Còn sở dĩ, dùng hình tượng con khỉ mà không phải là con thú khác là vì khỉ thường hay bắt chước làm theo những gì nó trông thấy.  Trong thành ngữ của văn hóa Mỹ cũng có câu nói: “monkey see, monkey do” (khỉ thấy, khỉ làm theo) là ám chỉ theo ý trên.

Trong kinh Mi Tiên Vấn Đáp do Hòa Thượng Giới Nghiêm dịch, câu hỏi thứ 179 - Về Con Gà, có đoạn viết: “Các vị tỳ khưu… khi trì bình khất thực trong xóm làng, vào thành phố... tâm các thầy rất tỉnh thức, mắt các thầy rất sáng nhưng cũng phải làm như đui, không thấy, không biết gì hết. Khi giao tiếp với ngũ trần: sắc tướng, âm thanh, khí, vị v.v... các vị tỳ khưu giả đui, giả điếc, giả câm v.v... Thật đúng như Đức Đại Ca-chiên-diên (Màhà Kaccàyana) đã dạy: ‘Hành giả tu tập, có con mắt sáng cũng làm như mờ, có lỗ tai tốt cũng làm như điếc, có miệng lưỡi thiện thuyết cũng làm như câm; có sức mạnh, dũng cảm cũng nên làm như kẻ yếu đuối ; có sự việc gì xẩy ra thì thân tâm đều nằm ngủ yên lặng, như mẹ ru con ngủ vậy.’ ” Không biết có sự trùng hợp nào giữa hình tượng ba con khỉ nói trên và lời dạy trong kinh Mi Tiên Vấn đáp hay không? 

Nhưng về ý nghĩa, thật rõ ràng là có liên hệ với nhau.  Không thấy, không nghe, không nói là một hình thức tu tập để tâm không bị dính mắc, không bị mắc kẹt, đặc biệt là vào những việc tiêu cực, xấu xa, hay bất tịnh. Giống như câu chuyện một người tài xế lái xe taxi tại thành phố New York.  Một hôm đang đón khách tại một con đường nọ.  Sau khi đón khách xong, anh ta ra dấu xin được lái ra.  Bỗng có một chiếc xe chạy ẩu, lạng nhanh giành đường, suýt chút nữa là đụng xe taxi của anh.  Người lái xe ẩu kia, thay vì xin lỗi, thốt lời thóa mạ, chưởi rủa anh tài xế xe taxi thậm tệ.  Nhưng anh tài xế taxi vẫn bình tỉnh, vẫy tay xin lỗi, rồi chạy đi.  Người khách đi xe kinh ngạc, hỏi anh tại sao lại bình thản như vậy!  Anh tươi cười trả lời: ‘Tôi lái xe taxi đã mười năm rồi, và ở đây có rất nhiều xe rác lắm.  Nếu mình không biết bịt mắt, che tai, không nghe, không thấy thì mình sẽ bị họ đỗ rác vào mình. Có lợi ích gì đâu mà phải mang rác của kẻ khác!’

Lan man về chuyện khỉ, vượn thì lại nhớ đã đọc ở đâu đó thuật bẫy khỉ độc đáo của một số nơi trên thế giới.  Nói chung, muốn bắt khỉ, người ta dùng một trái dừa để nguyên vỏ và sọ, chỉ khoét một lổ, vừa đủ lớn cho bàn tay của khỉ vào lọt. Trong ruột dừa người ta trộn những thức ăn mềm và thơm ngon mà khỉ ưa thích như chuối, đường, mía, v.v... Thợ săn mang quả dừa này đến nơi có nhiều khỉ. Họ xích quả dừa vào gốc cây rồi bỏ đi .

Thấy vắng người, bọn khỉ kéo nhau đến chỗ có quả dừa, đi chung quanh xem xét tỉ mỉ mọi sự vật. Khi không có gì khả nghi chúng mới chuyển sang trắc nghiệm quả dừa. Nhận thấy mùi thức ăn phát ra từ bên trong ruột quả dừa, liền thay phiên nhau dòm vào.  Khi thấy mọi thứ đều an toàn, một con thử thò tay vào nắm lấy thức ăn. Bỗng nó la lên giãy nảy vì không thể rút tay ra được. Cả bọn thất kinh liền xúm nhau vào cứu bạn.  Đứa thì kéo chân con khỉ mắc nạn, đứa thì kéo tay, đứa thì nắm lấy quả dừa cố gắng kéo ra, đứa thì cắn quả dừa, níu dây xích v.v...Nhưng tất cả đều vô vọng, bỡi vì con khỉ do bản năng tham lam, quyết không thả nắm tay ra. Sau một lúc cố gắng vô ích, bọn khỉ chán nãn, chúng bỏ con mắc bẩy, đang lăn lộn kêu khóc. Chúng tản mạn khắp nơi, đứa lên cây, đứa kêu hú, đứa từ xa nhìn đến ái ngại, thương xót. Rồi thợ săn đến, tay dắt chó, tay cầm lưới, gậy gộc, v.v...Họ trói gô con khỉ bỏ vào lồng, đem đi.  Rồi trò cũ lại tái diễn, những con khỉ khác lại tiếp tục đưa tay vào cho mắc bẩy .

Xét câu chuyện trên, con khỉ sở dĩ lâm nạn là do chính nó đã không chịu buông nắm tay ra, nên loài người dựa theo tính năng đó mà chế ra cái bẩy để bắt chúng. Vậy nếu con khỉ có trí khôn, thì nên xét lại mà tự trách mình hơn là oán trách số phận. Phật dạy trong Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) thì tham dục, khao khát (tanha) là nguồn gốc của khổ đau. Chúng ta ai cũng có bản năng tham dục là vì bản tính sinh tồn để bảo vệ thân xác và tính mạng của mình, nên muốn từ bỏ nó thật là khó khăn và gian nan.  Thế nên, muốn trị căn bệnh tham dục này thì phải uống liều thuốc buông xả.

Buông xả bắt đầu bằng bố thí, học cách cho ra, chớ không muốn ôm vào. Muốn có được diệu dược buông xả chúng ta phải học và thực hànhSở dĩ cần phải học buông xảbản tính này vốn không có trong ta. Nó đi ngược lại bản tính sinh tồn.  Khi mình bố thí hay cho ra chúng ta bắt đầu rộng mở trái tim, hay tấm lòng của mình.  Trái tim càng rộng mở thì chúng ta càng có thể xả bỏ những ích kỷ, tị hiềm, âu lo, phiền muộn.  Tất cả những thứ tiêu cực này đều do tham dục mà ra.

Nói chuyện khỉ mà quên chuyện Tề thiên Đại thánh là một thiếu sót lớn.  Chúng ta, những người đã từng say sưa theo dõi chuyện Tôn Ngộ Không đại phá các động yêu ma, quỷ quái, dù biết đây là một chuyện hư cấu của Ngô Thừa Ân, ai cũng công nhận sức hấp dẫnlôi cuốn của chuyện Tây Du Ký này. Nhưng gần đây, theo giáo sư Hà Văn Kiệt, trưởng nhóm nghiên cứu, Tôn Ngộ Không thực chất là một người đàn ông có thật, tên là Thạch Bàn Đà, quê tại thành Tiên Dương, người dân tộc Hồ. Ông có ngoại hình xấu xí, thô kệch, kỳ quái, nên có biệt danh là "Hầu hình nhân". Tuy nhiên, người dân trong vùng ai cũng yêu quý Thạch Bàn Đà, bởi ông tính tình thực thà, thông minh nhanh nhẹn, võ nghệ cao cường, thường hay cứu mạng dân lành, diệt trừ thú dữ. Vào năm 629, khi Đường Tăng dừng chân tại vùng Tiên Dương, biết tin Huyền Trang đang giảng kinh, người đàn ông xấu xí này liền tìm tới nghe, rồi bị cảm hóa, thấm dần tư tưởng nhà Phật. Ông một người một ngựa, tự nguyện tháp tùng Đường Tăng tới Tây Thiên, cùng sư phụ vượt mọi gian nan, hiểm trở trên đường lấy kinh. (theo Bách khoa toàn thư mở - Wikipedia)

Dù Tôn Ngộ Không là nhân vật thực hay hư cấu, chúng ta ai cũng yêu thích anh chàng khỉ này, dù tính tình nóng nảy nhưng rất can đảm, ngay thẳng, và thật thà, một bản tính rất là ‘người’.  Chúng ta thấy một cái gì đó trong ta qua hình tượng chú khỉ Tôn Ngộ Không, kiêu ngạo, điên rồ, có khi ngáo ộp, nhưng không gian trá, điêu ngoa.  Làm người, ai trong chúng ta cũng đều có những đặc tính tốt và xấu, nhưng nếu mình biết phát huy những cá tính tốt và không cố tình dưỡng nuôi những cá tính xấu thì mình có khác gì anh chàng Tôn Ngộ Không mà mình yêu thích đâu!

                                                                                Thiện Ý

                                                             (trước thềm xuân Bính Thân, 2016)   

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14866)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15679)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14808)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15796)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20694)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 12934)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12591)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 14911)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 16480)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 12581)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15561)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15461)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14736)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15585)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 11722)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12532)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13429)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12408)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 11928)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12703)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11578)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13697)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14034)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12868)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12705)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 12963)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 12951)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13577)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12412)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14398)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13261)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13722)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14582)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 12681)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28200)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11743)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12615)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15001)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11944)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11720)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12803)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11934)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11488)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10242)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11129)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10911)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11155)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11202)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14194)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12427)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 11655)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29203)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 10731)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11040)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10731)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11292)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10720)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12207)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11264)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10023)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant