Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Minh sư xuất cao đồ

31 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8555)
Minh sư xuất cao đồ

MINH SƯ XUẤT CAO ÐỒ 

Thích Thông Huệ 

Ngày xưa, có một người thợ mài ngọc tài hoa vào bậc nhất thiên hạ. Ông từng cầm trong tay biết bao trân bảo, nhưng chưa có viên ngọc nào khiến ông thấy toàn vẹn. Hôm nọ, tình cờ ông bắt gặp một viên đá dị thường nằm chơ vơ trong bụi cỏ. Viên đá rất to, lấm lem bùn đất, thô nhám sù sì, nhưng đôi mắt lão luyện của người thợ bậc thầy đã phát hiện ra một báu vật vô giá. Ông vui mừng đem về, trổ hết tài nghệ dũa mài viên đá. Và kết quả vượt ngoài mong đợi, viên đá thô nhám dơ bẩn đã trở thành viên kim cương tuyệt trần, thế gian hiếm thấy. 

Người thợ tài hoa có đôi mắt tinh tường ấy là Ðiều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Viên kim cương là chàng trai trẻ Ðồng Kiên Cương, tức Nhị Tổ Pháp Loa - Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Chuyện bắt đầu từ làng quê Cửu La, gần con sông Nam Sách hiền hòa. Người mẹ có 8 đứa con gái, một đêm nằm mộng thấy dị nhân trao cho cây kiếm thần, từ đó hoài thai. Nhà nghèo lại đông con, nếu chẳng may lại sanh thêm đứa con gái nữa, hóa ra cả nhà là một “bầy vịt giời” như lời nhiếc móc của gia đình chồng ư? Thế nên, người mẹ đành lòng uống thuốc phá thai, không chỉ một lần mà những bốn lần. 

Thuốc không hiệu nghiệm, cậu bé trai - người con thứ 9 sinh ra giữa vòng tay yêu thương của gia đình nội ngoại. Một mùi hương lạ phảng phất khắp nhà khiến ai nấy nhớ lại giấc mộng ngày nào của người mẹ. Vui mừng được “người trời” giáng hạ làm con, xen lẫn nỗi ân hậnmê muội suýt phá vỡ hạnh phúc ngọt ngào, người mẹ siết chặt con vào lòng, tự hứa sẽ cố hết sức mình cho con được sung sướng và nên người hữu dụng. Tên Ðồng Kiên Cương được mẹ âu yếm đặt cho cậu bé. 

Tố chất đặc biệt khác người của cậu bé Kiên Cương bắt dầu lộ ra khi cậu đến tuổi ăn dặm. Ðể con chóng lớn, người mẹ hàng ngày vớt tép, bắt cá về nấu cháo cho con. Lạ lùng làm sao, cậu bé chỉ mới ăn vào vài muỗng cháo là nôn ra kỳ hết. Lần nào cũng thế, khiến mẹ lo lắng hỏi han khắp chỗ. Nghe lời mách bảo, mẹ bắt mấy con cóc về làm thịt, nấu nướng thật ngon. Cháo cóc múc ra, cả nhà xúm lại dỗ dành cậu bé. Muỗng cháo thơm lừng vừa đưa đến gần, cậu bé đã quay mặt đi, khóc thét lên, dỗ thế nào cũng không nín. Mẹ đành gạt nước mắt, đưa con đến thầy lang nổi tiếng trong vùng.

Vị thầy thuốc già chăm chú nghe người mẹ kể lể, xem mạch cậu bé hồi lâu. Ông nhíu mày suy nghĩ, vẻ mặt băn khoăn. Cuối cùng ông phán: 

- Tôi chẳng thấy cháu mắc bệnh gì, nhưng không rõ vì sao cháu không chịu ăn cá thịt, có lẽ cái tạng nó như thế. Thôi thì bà cứ nuôi cháu bằng rau quả xem sao

Thế là, cậu bé ngay từ thời thơ ấu đã có khuynh hướng trường chay. Không những không dùng thịt cá, cậu còn từ chối các gia vị cay nồng, nhất là hành tỏi. Càng lớn lên, cậu càng khôi ngô đỉnh đạc, luôn dùng lời từ ái nói chuyện với bạn bè thân quyến. Trong nhà ngoài xóm đều yêu mến nể nang cậu bé khác người. 

Thời gian thấm thoát trôi qua. Cậu bé Kiên Cương giờ đã trưởng thành. Nhiều nhà ngấm nghé muốn chọn chàng làm rễ quý, nhưng dường như trong mắt chàng chưa có ý trung nhân. Lẽ nào người thanh niên tuấn tú, tràn trề sức sống kia không lúc nào thấy lòng rung động trước hình bóng mỹ nhân? Chàng còn chờ đợi ai, còn kén chọn gì mà 21 tuổi đời vẫn chưa cho dòng họ một mụn con nối dõi? Không có con trai nối dõi tông đường là tội lớn nhất trong ba tội bất hiếu, chàng có biết hay không, mà ngày ngày cứ mãi trầm tư như có điều gì lo nghĩ? 

Cũng trong thời gian ấy, Thượng Hoàng Trần Nhân Tông xuất gia, ở trên non Yên Tử. Ngài thường du hành khắp các miền quê, nhưng không cho quan dân bày nghi lễ đón tiếp, sợ tốn kém sức người sức của. Tuy vậy, vì kính trọngbiết ơn Bậc minh quân đem lại thái bình thịnh trị cho đất nước, nên Ðiều Ngự đến đâu, dân làng tụ họp đông đảo chào mừng đến đó. Ðiều Ngự dạy dân chúng quy y Tam Bảo, giữ ngũ giới tu thập thiện. Những nơi thờ tà thần hay các sinh thực khí đều bị phá bỏ. 

Một ngày đẹp trời, Ðiều Ngự cùng đoàn tùy tùng đến làng Cửu La, quê hương của Kiên Cương. Chàng trai trẻ đang đi xa, tự nhiên thấy nôn nao lạ. Không hiểu có gì hối thúc khiến chàng phải mau bước quay về. Từ xa, chàng đã thấy đoàn người đông đảo bên bờ Nam Sách, đi đầu là các vị hương chức bô lão, vẻ mặt cung kính như lúc làm lễ rước Thành Hoàng. Kế đến, một đoàn tu sĩ áo nâu, từng bước chân thảnh thơi vững chãi. Dẫn đầu nhóm tu sĩ là một vị đầu đà, dung nghi thoát tục, phong thái siêu phàm. Vừa thoạt trông, Kiên Cương bỗng nhiên chấn động, nước mắt tuôn trào. Dường như lần đầu gặp mặt Ðiều Ngự lại là lần tái ngộ sau nhiều năm tháng vắng mặt, là sự kết nối duyên Thầy trò nhiều đời. Hai mươi năm qua, vì đời chàng như con thuyền lênh đênh trên sóng nước, không biết đi về đâu. Hôm nay, con thuyền chàng đã tìm được bến đỗ bình yên, một nơi an trú tuyệt vời. Chàng đến trước mặt Ðiều Ngự, năm vóc gieo xuống đất, tha thiết được xuất gia

Một khoảnh khắc kinh ngạc khiến ai nấy bất động, nhưng sau đó nhiều người tiến đến, định lôi chàng đứng dậy tránh đường. Ðiều Ngự ngăn lại, nói với thị giả

- Ðứa bé nầy có đạo nhãn, ngày sau ắt sẽ thành bậc pháp khí

Ngài ân cần hỏi han tên họ quê quán, rồi cho phép chàng đứng dậy. Tấm lòng Bậc Minh Sư hân hoan vì gặp được đồ đệ vừa ý - một viên ngọc còn trong quặng, nhưng hứa hẹn trở thành trân bảo nếu gặp tay thợ tài hoa. Và chính Ðiều Ngự sẽ là người thợ có bàn tay vàng ấy. Ngài đặt tên chàng là Thiện Lai, cho thọ giới Sa di và gửi chàng đến Quỳnh Quán học đạo cùng Hòa thượng Tánh Giác. 

Sa di Thiện Lai hàng ngày kinh kệ và chấp tác cùng chúng Tăng, nhưng lòng chú không an vì có nhiều thắc mắc chưa giải đáp được. Hòa thượng Tánh Giác đã tận tình chỉ bày cho chú, ân cần trả lời nhiều câu hỏi của chú, nhưng dường như chú còn điều gì đó chưa thông. Một hôm, chú đọc kinh Lăng Nghiêm đến chỗ Thất xứ trưng tâm, hậu khách trần dụ (Bảy lần trình bày tâm, sau cùng đến ví dụ về khách trần), thấy quá lý thú. Xem đi xem lại nhiều lần, chú có chỗ vào nên vội từ giã Hòa thượng Tánh Giác, về tham yết cùng Ðiều Ngự. 

Ðến nơi, gặp lúc Ðiều Ngự đang thăng đường, giảng về bài tụng Ô kê (gà đen) của Thái Dương. Chú ngồi yên, lắng sâu tâm thức. Từng lời của Ðiều Ngự như dòng nước mát rót vào lòng, rửa sạch mọi cấu uế phiền não từ vô thủy kiếp. Chú tỉnh ngộ, đôi mắt sáng ngời nhìn vị Thầy khả kính. Ðiều Ngự trên pháp tòa trông thấy, biết người học trò yêu đã có phần tương ưng, đến lúc cần sử dụng phương tiện thiện xảo

Ngài cho phép Thiện Lai được làm thị giả, sớm hôm hầu hạ, nhưng không chỉ dạy thêm điều gì. Lòng thôi thúc muốn trình kiến giải, chú làm bài tụng Tâm Yếu dâng lên Ðiều Ngự. Tưởng Sư phụ nếu khônglời khen thì ít nhất cũng gật đầu hứa khả, nào ngờ Ngài không nói một lời, cầm bút sổ toẹt vào bài tụng. Ðau khổ, thất vọng chú bước ra khỏi phương trượng, tìm nơi vắng vẻ ngồi suy nghĩ miên man. Vẫn biết mình sở học non nớt, sở ngộ cạn cợt, nhiều nghi vấn chưa giải tỏa tận căn để; Nhưng sao Sư phụ không chỉ đường đi, lại bắt mình mò mẫn trong đêm tối mịt mùng? Vẫn biết Ðiều Ngự làm gì cũng có dụng ý, Ngài đôi khi cũng lộ ra tình cảm khá đặc biệt đối với mình, nhưng sao bây giờ Ngài lại nghiêm khắc lạnh lùng đến thế? 

Ðắm mình trong suy tư rồi tự mình an ủi, có lẽ Sư phụ muốn mình tiến tu hơn nữa. Chú lại hăm hở viết thêm bài tụng thứ hai, tin rằng Ngài sẽ hài lòng, vì bài nầy có kiến giải sâu sắc hơn bài trước. Nhưng buồn thay, Ðiều Ngự chỉ nhìn qua một lượt, rồi lại cầm bút sổ toẹt từ trên xuống dưới. Ngài cũng chẳng có lời nào an ủi, mắt nhìn cũng nghiêm nghị xa xăm. Lần thứ hai, rồi lần thứ ba... không có kết quả gì hơn. Chẳng hiểu thiền sinh Nghĩa Huyền ngày xưa bị Tổ Hoàng Bá đập ba gậy khi hỏi Tổ về Ðại ý Phật pháp, có kinh ngạc đau khổ nhiều bằng Sa di Thiện Lai ngày nay không? Vệt bút đen màu mực sổ thẳng trên bài kệ, như nhát kiếm Thái A cắt nát tâm can chú. Trong đầu chú chỉ còn mỗi câu hỏi “Các bài kệ ấy sai ở chỗ nào?” 

Ðánh liều một lần cuối, chú đắp y chỉnh tề lên đảnh lễ Ðiều Ngự, xin Ngài vì thương mà dạy bảo. Thưa thỉnh ba lần, Ðiều Ngự vẫn một mực lặng thinh. Ðến lần thứ tư, thấy rõ tâm đồ đệ đã quá thiết tha, Ngài mới buông một câu: 

- Của báu nhà mình không từ bên ngoài mà được, hãy tự tham khảo lấy! 

Lê chân trở về liêu phòng, lòng nặng trĩu, chú không còn biết làm gì, nghĩ gì. Mọi kiến thức gom góp từ kinh sách, những lần tỉnh ngộ tưởng đã trực nhận bản tâm... tất cả đều chẳng còn mảy may vương vấn. Một mình đối diện với ngọn đèn dầu lạc hắt hiu, chú không biết thời gian trôi qua bao lâu - một phút giây hay một đời người?... 

Ðã quá nửa đêm, tất cả im ắng, chẳng nghe tiếng côn trùng rả rích, chẳng có tiếng chó sủa đêm. Cơn gió thoảng đầu hè thổi xào xạc, cả ánh sao đêm cũng thôi nhấp nháy. Mọi vật như nín thở đợi chờ giây phút trọng đại. Bỗng dưng, bông đèn tàn rụng xuống tắt ngấm. Bông đèn vụt tắt nhưng tâm vị Sa di trẻ chợt bùng lên ánh sáng nhiệm mầu! Chú hoát nhiên đại ngộ, vội xốc lại y áo, hướng về phương trượng đảnh lễ tạ ơn

Sáng sớm, Sa di Thiện Lai ra mắt Ðiều Ngự vấn an rồi trình chỗ sở ngộ của mình. Ðiều Ngự thầm ấn chứng cho. Lần này, chú được Sư phụ hứa khả vì khi bặt dứt mọi vọng niệm, trí tuệ tự soi chiếu, trí tuệ ấy mới là của báu nhà mình. Từ đó, chú phát nguyện tu hạnh Ðầu đà theo gương Thầy. Thế là, chỉ sau một năm xuất gia, chú Sa di đã nhận ra mặt thật xưa nay. Thời gian về sau, vừa tự lợi vừa lợi tha, đúng là Bậc Pháp khí như lời Ðiều Ngự tiên đoán, trong lần đầu gặp gỡ. 

Năm Thiện Lai được 22 tuổi, Ðiều Ngự cho phép chú thọ giới Tỳ kheoBồ tát giới, ban hiệu là Pháp Loa - Loa lớn tuyên thuyết chánh pháp. Và chỉ ba năm sau, Tỳ kheo Pháp Loa đã được Ðiều Ngự trao truyền Tổ vị. Buổi lễ chính thức truyền y bát, công nhận Tỳ kheo Pháp Loa làm Ðệ nhị Tổ Thiền Tông Trúc Lâm Yên Tử, được tổ chức trọng thể tại chùa Siêu Loại. Vua Anh Tông cùng đông đủ triều thần đến tham dự. Từ đây, vị Tỳ kheo 25 tuổi vừa trưởng dưỡng Thánh thai, vừa gánh vác trọng trách kế thừa tông môn, xiển dương đạo pháp

Trong 22 năm trên ngôi Tổ vị, Thiền sư Pháp Loa đã làm tròn nhiệm vụ một cách xuất sắc. Ngài là người đầu tiên tổ chức Giáo hội Phật giáo một cách có hệ thống, lập sổ bộ Tăng niTự viện trong cả nước. Khả năng của Ngài gồm nhiều lĩnh vực, vừa là một vị Thiền giả có nội chứng, một pháp sư biện tài vô ngại, một bậc giáo phẩm uy nghi; vừa là một học giả trước tác dịch thuật kinh sách; lại vừa là một nhà hoạt động xã hội, nhà kiến trúc xây chùa tạc tượng... Công việc nào cũng được Ngài hoàn thành viên mãn. Bên cạnh đó, Ngài cũng không quên việc lễ Phật, tọa thiền, dù công việc bận rộn đến đâu. Lời phát nguyện chí thành của Ngài thể hiện sự tinh tấn tu hànhlòng từ bi vô hạn đối với chúng sanh: “Chư Phật và chư Bồ tát có những hạnh nguyện gì, con đều tha thiết học hỏi và làm theo. Dù chúng sanh có khen ngợi hay khinh chê, dù bố thí hay xâm đoạt, thì khi gặp mặt hay nghe tên đều xin cứu độ cho tất cả được lên bờ giác”. 

Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ, từ trí thức đến bình dân, từ Tăng ni đến Phật tử. Ngài đã góp phần rất lớn vào việc xây dựng và phát triển ngôi nhà Phật giáo Ðại Việt nói chung và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng, dù chỉ hiện diện trên cõi đời vỏn vẹn 47 năm. Những gì Ðiều Ngự phó chúc, Nhị Tổ đều thực hiện chu toàn, quả xứng đáng với sự đãi ngộ và tin cậy của Ðiều Ngự. 

* * 

Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, 
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi. 

Viên ngọc thô Ðồng Kiên Cương nhờ tay nghề tài hoa của người thợ bậc thầy Ðiều Ngự dũa mài nhiều phen, mới trở thành viên minh châu hiếm thấy. Nếu không có Minh Sư Ðiều Ngự, làm sao Phật giáo đời Trần có được bậc Cao Ðồ Pháp Loa? Cho nên có thể nói, Nhị Tổ gặp Ðiều Ngự là một phước duyên hãn hữu; ngược lại, Ðiều Ngự có được đồ đệ như Nhị Tổ là một điều đắc ý vào bậc nhất của Ngài. 

Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ 
Phan Rang - Ninh Thuận

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33057)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8348)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 9833)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 8317)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19115)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12916)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9672)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9826)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9828)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20399)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10215)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9851)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10234)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9804)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 9525)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8629)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9179)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 10991)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8427)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9697)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9087)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20289)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19055)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8633)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8762)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 11994)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9462)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22840)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8884)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9155)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9876)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9754)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10498)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10839)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12357)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9218)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9098)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9218)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10348)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21847)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22064)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16461)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9444)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10037)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8289)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8181)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9341)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8756)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8542)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12154)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9031)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9513)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8506)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9343)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8506)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8273)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8331)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10048)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 9467)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9252)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant