Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược ý "tiết Trung nguyên phổ độ" xá tội vong nhân trong đại lễ Vu Lan Phật giáo Bắc truyền

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 19158)
Lược ý "tiết Trung nguyên phổ độ" xá tội vong nhân trong đại lễ Vu Lan Phật giáo Bắc truyền

LƯỢC Ý "TIẾT TRUNG NGUYÊN PHỔ ĐỘ" XÁ TỘI VONG NHÂN
TRONG ĐẠI LỄ VU LAN PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN
Thích Tâm Mãn

Trung nguyên ngày vọng hội Vu Lan
Bến Giác chiều thu sóng đạo ngàn
Những ai là người mang ơn nặng
Đều vận lòng thành đón Vu Lan
Đại Lễ Vu Lan còn được gọi là tiết Trung nguyên, đây là một danh từ được rất nhiều sử sách nước ta thường gọi chỉ cho Đại Lễ Vu Lan rằm tháng 7, trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, kỷ nhà Lý chép: “Mùa thu tháng bảy năm Mậu Tuất (1118) tiết Trung Nguyên, vua Lý Nhân Tông bày cổ bàn, nhân vì lễ Vu Lan Bồn...”.

Châu Bản Triều Nguyễn cũng có đoạn chép: “Năm Minh Mạng thứ XVIII, Đinh Mùi (1837), lại thiết trai đàn tụng kinh 21 ngày đêm, cũng vào tiết Trung Nguyên, tức Vu lan rằm tháng 7”. Vậy vì sao Đại Lễ Vu Lan Được gọi là tiết Trung Nguyên?.

blank

Tiết Trung Nguyên là danh từ của Đạo Giáo dùng để gọi lễ hội rằm tháng bảy, đây là “Lễ tiết” theo quan niệm truyền thống của Đạo Giáo. Đạo Giáo cho rằng trong một năm có ba tiết gọi là “Tam Nguyên” là ngày giáng trần của “Tam Quan”. Trong Kinh Thái Thượng Tam Quan của Đạo Giáo có chép: “Thiên Quan tứ phước, Địa Quan xá tội, Thủy Quan giải ách... tất cả chúng sanh đều dưới sự cai quản thống nhiếp của Thiên, Địa, Thủy Quan...”. Trong tín ngưỡng dân gian gọi tháng bảy là “tết của Quỷ” hay là “Tháng Cô Hồn”.

Tiết Thượng Nguyên còn gọi là Thượng Nguyên Thiên Quan tiết, lễ tiết của đầu năm vào tháng giêng, đây là tiết giáng trần của Thượng nguyên tứ phước thiên quan, Tử Vi Đại Đế. Tiết Trung nguyên còn xưng là Trung Nguyên Địa Quan tiết, lễ tiết của giữa năm, vào tháng bảy, đây là tiết giáng trần của Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan, Thanh Hư Đại Đế. Tiết Hạ nguyên còn xưng là Hạ Nguyên Thủy Quan tiết, lễ tiết cuối năm vào tháng mười, đây là tiết giáng trần của Hạ Viên Giải Ách Thủy Quan, Đồng Âm Đại Đế.

Quan niệm của Đạo Giáo cho rằng tiết Trung Nguyên bắt đầu từ ngày mồng 1 tháng 7, ngày “Khai mở quỷ môn”, cho đến ngày 30 tháng 7, ngày “đóng cửa quỷ môn”, đây là tiết của quỷ, đây là khoảng thời gian, dưới âm phủ, âm ty mở cửa địa ngục, cho các loài quỷ lên dương thế để thọ hưởng sự cúng tế và nhận đồ thế chấp của người thế gian, cũng như tìm người thế mạng.

Người trên thế gian vì muốn tránh sự phá rối cũng như làm tổn hại đến tính mạng của mình do các loài quỷ gây ra, nên đến ngày rằm tháng bảy phải lập đàn, thiết lễ, bày các phẩm vật thực phẩmcác loại vàng mã, hình nộm để thế chấp và cúng cấp các loài cô hồn ngạ quỷ. Lễ cúng tế này được Đạo Giáo gọi là Tiết Trung Nguyên.

Căn cứ theo Kinh Huyền Đô Đại Hiến của Đạo Giáo có chép: “Ngày 15 tháng 7 là tiết Trung Nguyên vậy.... đây là ngày mà Đại Quan kiểm tra xét hỏi, phân biệt các tội thiện ác dưới địa phủ. Chư ThiênThánh chúng đều ở trong cung, kiểm tra sổ ghi kiếp số của các loài quỷ, các loài ngạ quỷ đang bị tù ngục đều được thả ra...”.

blank

Quan niệm của Đạo Giáo cũng như trong tín ngưỡng dân gian tin rằng “Quỷ” là những vong hồn chết bất đắc kỳ tử, là chưa đến số chết mà phải chết, chết một cách oan uổn, không cam tâm, không nhắm mắt được, nên khi chết biến thành “Lệ Quỷ” để quay lại báo thù. Cho nên trong dân gian có câu “Làm ác giết người, thì có thể trốn được sự trừng phạt của quốc pháp, chứ đâu tránh khỏi sự trả thù của oan hồn lệ quỷ.”.

Tiết Trung Nguyên của Đạo Giáo cũng như trong dân gian cho rằng, đây là Mùa của “Lệ Quỷ” cô hồn nên phải cúng tế cho các loại Lệ quỷ, ăn uống đầy đủ, cúng cấp vàng mã đủ đầy, để giải trừ các oán hờn, không còn trả thù nữa, để được thoát hóa đầu thai làm người.

Đạo Giáo giải thích về quỷ rằng: “Người chết thành quỷ, quỷ có nghĩa là quy, ý là có chổ để về vậy. Quỷ có chổ để về, thì không thành Lệ quỷ. Nói chổ về là chỉ khi chết được an táng đàng hoàng, được con cháu thờ cúng.”.

Tiết Trung Nguyên của Đạo Giáo các Đạo sĩ thường lập Đàn Huyền Đô Đại Trai, để cúng tế cầu nguyền cho các ngạ quỷ không người thờ tự và cúng cấp, các loại cô hồn lệ quỷ được ăn uống no đủ, siêu thoát để đi đầu thai, đây là phương pháp của Đạo Giáo tế độ cô hồn.

Trong kinh Huyền Đô Đại Hiến của Đạo Giáo có chép: “Vào ngày rằm tháng bảy làm đàn Huyền Đô Đại Trai, bày đầy đủ các thứ hoa quả, những vật dụng cúng tế quý trong thế gian... hiến cúng chư Thánh Chúng và Đạo sĩ… trong suốt ngày tháng thiết đàn giảng tụng kinh pháp, thập phương Đại Thánh, cao lộc linh thiêng, tội đồ ngạ quỷ, đương thời giải thoát...”.

blank

Khác với quan niệm của Đạo Gia chỉ cúng tế và thế chấp đồ vàng mã, để tránh sự phá rối và báo thù của các loài ngạ quỷ, Đại Lễ Vu Lan rằm tháng bảy của Phật Giáo chủ trương “Mùa Báo hiếu” mọi người nên học hạnh hiếu thảo với cha mẹ, làm việc thiện tích góp công đức, trai Tăng cúng dường, hồi hướng cho cha mẹ hiện đời và nhiều kiếp về trước được siêu sanh về Tịnh độ, và lập đàn chẩn tế cầu siêu bạt độ cho những âm hồn, quỷ đói, thọ dụng cam lộ pháp thực và cầu nguyện cho họ xã bỏ các oán hờn phiền não, vãng sanh về cỏi Phật.

Phật Giáo Đời Đường, là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của tất cả các tôn giáo có mặt ở Đông độ, hai quan niệm của Phật GiáoĐạo Giáo, cùng chung một tâm từ, nhưng hoàn toàn khác nhau về tư tưởng cũng như cách thức, cuối cùng hai quan niệm này được hợp nhất lại thành một ý niệm chung, trong một lễ hội, đó là lễ hội “Trung Nguyên Phổ Độ” chính là vào thời Nhà Đường bởi tư tưởng “Tam Giáo Đồng Nguyên”.

Phật Giáo với bản lĩnh văn hóa đạo lý của chính mình, cộng với sự tín sùng ủng hộ của triều đình và dân chúng, nên Đại Lễ Vu Lan của Phật Giáo, trên cương vị chủ đạo pháp hội, đã hòa hợp thành công lễ tiết của người Đông độ thành pháp hội mang đậm nét văn hóatinh thần của Phật Giáo.

Thành công này là do sự ứng thế của Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La NiCam Lộ Đà La Ni Chú của Phật Giáo do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào đời Đường. Khoa Du Già Diệm Khẩu, Đàn Chẩn tế Cô hồn của Phật Giáo được hưng khởi từ Ngài Bất Không Tam Tạng, và sự kiện Ngài Kim Địa Tạng thành đạoCửu Hoa Sơn,

Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não, cũng như thoát khỏi tất cả những thống khổ đảo ngượcđịa ngục của các loài ngạ quỷ, do nghiệp thức gây ra. Trong sách Mạnh Tử quyển thượng Công Tôn Sửu, giải thích về cứu đảo huyền có chép: “Ví như giải cứu người từ trong hoàn cảnh nguy khốn ra vậy”.

Phương pháp Cứu đảo huyền trong Đại lễ Vu Lan là đàn Du Già Diệm Khẩu Chẩn Tế Cô Hồn, căn cứ vào Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La NiCam Lộ Đà La Ni Chú. Hai bộ kinh này đều do Đức Phậttừ bi thương xót loài ngạ quỷ khổ, nên nói pháp phương tiện để cứu tất cả các loài quỷ đói thoát khỏi những nổi thống khổ bị đảo ngược.

blank

Khi ngài Bất Không Tam Tạng đến Trường An Kinh Đô nhà Đường ở chùa Đại Hưng Thiện dịch bộ Du Dà Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Cứu A Nan Đà La Ni Nghi Quỹ Kinh lập thành nghi quỹ và thứ lớp hành trì pháp thí thực, thành khoa Phóng Diệm Khẩu tức là nghi thức Chẩn Tế Cô Hồn của Phật Giáo.

Diệm Khẩu còn một danh từ khác là Diện Nhiên, Theo Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỉ Đà La Ni: “Một thời Phật tại Thành Ca Tỳ La... Bấy giờ Ngài A Nan một mìnhTịnh thất tu tập thiền định... có một con Quỷ đói tên là Diệm Khẩu đến trước ngài A Nan Bạch rằng: “còn ba ngày nữa là mạng tôi hết, sanh vào trong Ngạ Quỷ....”.

Ngài A Nan bạch Phật chuyện này và cầu Phật khai thị. Bấy giờ Đức Phậtnhân duyên này mà nói Thần chú “Vô Lượng Oai Đức Tự Tại Quang Minh Thù Thắng Diệu Lực Đà La Ni”, nếu trì tụng thần chú này lập tức giải trừ các nổi khổ oan khiên của Ngạ Quỷ...”.

Nói về các loài ngạ quỷ, những đối tượng để phổ độ trong đàn chẩn tế rằm tháng bảy, trong Luận Tỳ Bà Sa chép về ngạ quỷ như: “... có loại bụng lép như chó đói, đầu rối nùi, chân như khúc củi khô, miệng mũi thường chảy ra nước mũi nước dãi, lỗ tai sanh mủ, nơi mắt chảy ra máu. Có loại cao lênh khênh, bụng lớn như cái trống, cổ họng nhỏ như mũi kim, miệng thường phựt ra lửa, thân hình hôi hám, lông cứng nhọn như gai. Các loài ngạ quỷ khác thân thể còn ghê gớm xấu xa hơn nữa”.

Vì những nỗi khổ vô cùng vô tận của loài ngạ quỷ, khi ăn uống thức ăn đều biến thành lửa, thường xuyên bị đói khác hành hạ, vì lòng từ bi phổ độ nên trong Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỉ Đà La Ni; Phật thuyết thần chú “Biến Thực Chân Ngôn” trong Cam Lộ Đà La Ni Chú, Phật thuyết thần chú “Cam Lộ Chân Ngôn”, khi trì tụng hai thần chú này tất cả các thực phẩm đều biến thành cam lộ pháp thực và các loài ngạ quỷ đều có thể thọ dụng, vì vậy hai thần chú này là tâm điểm của Đàn Chẩn Tế.

Bồ Tát Địa Tạng với Đại nguyện “Nguyện độ hết chúng sanh, thì mới thành Phật”. theo truyền thuyết cho rằng Ngài Kim Kiều Giác tu hành ở núi Cửu Hoa Sơnhóa thân của Bồ Tát Địa Tạng, xuống trần gian để cứu độ chúng sanh. Đời Đường ngày 30 tháng 7, niên hiệu Khai Nguyên thứ 16, Kim Địa Tạng ở Cửu Hoa Sơn tu hành đắc đạo.

Theo lời Phật dạy trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, mọi người đều tin rằng Đức Địa Tạng thọ sự phó chúc của Phật, sau khi Phật diệt độ, và trước khi Đức Phật Di Lặc ra đời trong khoảng thời gian thế gian không có Phật tại thế, cho nên Ngài thay Phật giáo hóa hữu tình chúng sanh trong lục đạo, nhất là chúng sanh đang trầm luân trong địa ngục, cứu độ cho họ được thoát khỏi địa ngụckhuyến hóa tạo các duyên lành để sau này họ được duyên gặp Phật.

Ngày 30 tháng bảy theo tín ngưỡng Phật Giáo cũng như dân gian là ngày Khánh đản của Địa Tạng Bồ Tát, niềm Tin về sự cứu độ của Đức Địa Tạng Bồ Tát, trong chốn U Minh, cho nên trong dân gian tôn xưng Ngài là “Giáo chủ cõi U Minh” vì là giáo chủ cõi u minh, nên Ngài thống lãnh 10 vị vua trong cõi U Minh là “Thập Điện Minh Vương” vì vậy Ngài được phong đế hiệu là “Phong Đô Đại Đế” quyền miễn xá tội lỗi và cho đi đầu thai trong Địa Phủ đều do Ngài Địa Tạng quyết định.

Tín ngưỡng Phật Giáo và dân gian tin rằng nếu niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, hoặc cúng dường Trai Tăng Vu Lan Bồn trong Tiết Trung Nguyên và nhân ngày 30 tháng 7, ngày Khánh Đản của Ngài, thì những hương linh quá cố của họ sẽ được miễn xá các tội lỗi và được Ngài độ thoát.

Tiết Trung Nguyên, ngày mồng 1 tháng bảy mở cửa địa ngục, để cho cô hồn ngạ quỷ lên thế gian, thọ hưởng cúng tế, đến ngày 30 tháng bảy thì đóng cửa Địa ngục, nên các loài ngạ quỷ cô hồn trở về địa phủ. Đây là theo quan niệm của Đạo Giáo, sau khi Đại Lễ Vu Lan Bồn của Phật Giáo cùng tiết Trung Nguyên kết hợp lại trên tinh thần “Tam Giáo Đồng Nguyên”, thì ý niệm Đạo Tràng Phổ Độ chúng sanh do Ngài Địa Tạng Bồ Tát làm giáo chủ được ra đời.

Ngày 30 tháng bảy đóng cửa địa ngục của Đạo Giáo trở thành ngày phổ độ chúng sanh của Địa Tạng Vương Bồ Tát, thay vì phải trở về địa phủ chịu khổ, thì tất cả các vong hồn ngạ quỷ được Đức Địa Tạng cứu độ vãng sanh về Tịnh độ, không còn phải sa vào cảnh khổ địa ngục, vì vậy tiết Trung Nguyên được gọi là Trung Nguyên Phổ Độ, tháng bảy trong dân gian có câu truyền tụng “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

Lập Đàn Chẩn Tế “Phóng Diệm Khẩu” bạt độ hết thảy các loài cô hồn ngạ quỷ thoát khổ địa ngục, vãng sanh Tây Thiên, và chính những người phát tâm lập đàn cúng tế, bản thân họ sau khi chết nếu sa vào địa ngục sẽ được Ngài cứu độ, cho nên tiết Trung Nguyên được gọi là Trung Nguyên Phổ Độ, với ý nguyện bình đẳng độ thoát hết thảy muôn loài, và trong dân gian gọi là ngày “xá tội vong nhân” đều có nguồn gốc từ đây.

Tiết Trung Nguyên từ một lễ tiết cúng cấp cho các loài ngạ quỷ của Đạo Giáo, trở thành một lễ tiết văn hóa mang đậm nét nhân văn hiếu đạo của Đông độ. “Trung Nguyên Phổ Độ” trong Đại Lễ Vu Lan Phật Giáo Bắc Truyền, mang dấu ấn tinh thần báo hiếutừ bi của Đạo Phật, được phổ biến rộng rãi trong dân gian, đã trở thành một lễ hội quan trọng nhất trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người Đông Độ, đồng thời thể hiện sự tùy duyên bất biến của Đạo Phật, trong nguyện lực hoằng pháp lợi sinh.

Chùa Minh Thành - www.chuaminhthanh.com - www.minhthanhtu.com
Biên tập: ĐĐ. Thích Minh Thông.
Địa chỉ: 348 - Nguyễn Viết Xuân - Phường Hội Phú -
Thành Phố Pleiku - Tỉnh Gia Lai - Việt Nam
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33189)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8407)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 9899)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 8416)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19201)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12980)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9738)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9908)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9897)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20470)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10298)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9916)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10289)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9898)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 9585)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8685)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9248)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11046)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8489)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9755)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9145)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20385)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 8701)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8834)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12066)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9568)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22967)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8954)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9220)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9930)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9842)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10570)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10898)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12432)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9299)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9161)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9285)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10407)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21960)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22182)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16558)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9503)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10127)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8351)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8248)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9407)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8815)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8596)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12224)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9091)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9573)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8571)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9415)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8577)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8325)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8412)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10127)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 9525)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9349)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 8964)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant