Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vu lan và Rằm tháng bảy trong tinh thần dân tộc

19 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8791)
Vu lan và Rằm tháng bảy trong tinh thần dân tộc
image

Trước khi đặt bút viết bài này, ngoài một số vốn liếng ít ỏi tri thức Phật học, người viết đã tham cứu nhiều tài liệu, kinh sách có liên quan đến ý nghĩa lễ Vu Lan - Rằm Tháng bảy.

Tựu trung và cộng lại, chúng tôi thấy toát lên một điểm sáng lung linh trong khái niệm sống thực tại của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà với những tài liệu phong phú kia, đã nêu bật được chất keo gắn bó giữa ảnh hưởng Phật giáo với xã hội, con người qua nhiều thời đại.

Vâng! Những điều đó các bậc thức giả, các bậc sư trưởng đều đã nói hết rồi, không còn khe trống để hàng hậu sinh chúng tôi góp phần tô điểm. Đã đẹp, đã trở thành điều hiển nhiên rồi; hiển nhiên tới mức đôi khi chúng ta quên rằng chính nó đã trở thành ca dao dân tộc:

Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân

Không phải là thứ ca dao biền ngẫu đệm vần cho qua câu để tạo mở, tôn tạo cho ý đồ chính. Không viết đủ hẳn trong chúng ta ai cũng biết đó là ca dao theo kiểu “liên khúc” nói về lịch sinh hoạt 12 tháng trong một năm, mà nền văn minh nông nghiệp của xã hội Việt Nam ta xưa nay không thể chối cãi được.

Đã vậy, ”Tháng Bảy Ngày Rằm…”, câu nổi bật nhất không chỉ vì nó đã nói lên được ý nghĩa về một ngày lễ của Phật giáo, mà còn đưa ra tính nghiêm túc, thể hiện cách sống cộng đồng, ngoài sinh hoạt, vui chơi, ăn uống, mùa màng và thời vụ so với 11 tháng còn lại kia.

Nó đã trở thành lịch sinh hoạt hằng năm của dân tộc, kể từ khi dấu chân tích trượng của các Thiền sư đã đến và lưu dấu trên xứ sở Giao Châu này hơn 20 thế kỷ trước. Điều đó cho chúng ta thấy được rằng Phật giáo đã và luôn biết thích ứng để “nhập sông tùy khúc, nhập gia tùy tục” rất tuyệt vời khế lý khế cơ, không gây ra sự dị ứng, đối kháng.

Bởi vì, không phải dễ dàng “được” có mặt trong ca dao, tục ngữ, trong tâm khảm đời sống dân tộc, mà bất kỳ sự gượng ép, hoặc cố tình dùng thủ doạn để đạt được sẽ trở thành nạn nhân bị nghiền nát bởi bánh xe lịch sử khắc nghiệt.

Đặc biệt hơn, sự có mặt của Phật giáo trong ca dao 12 tháng kia, và ngay trong nếp sống cộng đồng dân tộc, còn mang một ý nghĩa to lớn khác, thể hiện được tính chân lý thực tiễn, vượt lên trên sự tôn kính thời nguyên sơ, khi con người tự cho mình còn nhỏ bé trước thiên nhiên.

Đó là thời kỳ dựng nước họ Hồng Bàng mà sách Lĩnh Nam Chích Quái đã kể lại; cái thời mà chính Lạc Long Quân phải dùng đến vạn phép thần thông biến hóa mới đuổi được kẻ xâm lăng phía Bắc đầu tiên là Đế-Lai ra khỏi bờ cõi.

Và cái thời mà mọi thứ yêu tinh thường xuất hiện quấy nhiễu dân lành, để đến nỗi phải tôn lên hàng thần thánh, kể cả tiếng sấm sét. Những Thần sông, thần nước, núi, gió, lửa .v…v.. đã có mặt chễm chệ trước sự quy phục con người thờ lạy.

Muốn sống còn, để dựng nước, cứu nước và làm ăn sinh sống, con người lúc ấy khi lên rừng xuống biển, tất phải xâm mình hình ảnh thủy quái, sơn tinh.v…v…

Như vậy, lịch sử PGVN có mặt và phát triển chỉ bằng phân nửa lịch sử dựng nước của con cháu Lạc Long Quânngẫu nhiên đánh bại được sơn tinh thủy quái trong truyền thuyết, đời sống lẫn trong tâm khảm con người, thay vào đó tôn tạo được ý sống, cách sống mới, phù hợp với lòng người, với sự khổ đau và với hiện trạng cuộc sống đương thời.

Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời, xứng đáng với phạm trù ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC; đó là sự thật được lịch sử chứng minh CÁI PHẬT GIÁO CÓ trong lòng dân tộc mình.

Lễ Vu Lan-Rằm Tháng Bảy được xác lập từ trong ý nghĩa đó. Tình cảm và đạo lý dân tộc ta vẫn luôn rộng mở; với thù, với bạn cũng chung cùng “Dòng nước mắt cùng mặn - Dòng máu đỏ” như nhau. Những “Thương người như thể thương thân”, “Mình với ta tuy hai mà một”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng…” v..v… há chẳng phải đạo lý Phật giáo đó sao!

Tương tự, khi đứng trước một hoàn cảnh bi thương nào đó, từ trong cửa miệng của dân ta há đã chẵng thốt lên câu đầu tiên “Tội Nghiệp”, bao hàm ý nghĩa to lớn, biểu lộ lòng lân mẫn, tương thân tương ái đó sao?

Nói cách khác, Phật giáo đã đáp ứng được một phần rất lớn tình cảm và niềm tin trong cộng đồng dân tộc, trở nên nguồn hòa nhập mật thiết trong mọi lĩnh vực. Cho dù là không Phật giáo, đến rằm tháng bảy, ai ai cũng đều tỏ ra tha thiết với sự hiếu để, cũng như tỏ lòng ai hoài mong xá tội vong nhân đối với thế giới xa xăm nào đó, tùy theo trình độ nhận thức cảnh giới địa ngục.

Nếu hiểu theo quan niệm vượt hóa, chúng ta sẽ dễ dàng đồng cảm những dòng sau đây của cố HT Thích trí Thủ (đăng trong Nội San Bát Nhã số 5 của Tổng vụ Tài Chánh trước năm 1975):

“Những cơn mưa dầm tháng bảy, trời âm u, bão và lụt đã bắt đầu, ngày dài của mùa hè rút ngắn lại, trời đất đang xoay tới khoảng thăng bằng, làm nhịp cầu giao cảm thiên thu giữa cõi sống và cõi chết.

Người chết đã buông tay rũ sạch những tham vọng của một đời, cho lá vàng rụng xuống. Người sống vẫn tiếp tục lượm nhặt lá vàng, xây những tham vọng cuồng dại mới.

Kiếp luân hồi kéo dài bất tận, người sống và kẻ chết nối nhau thành một ”đoàn vô tư lạc loài nheo nhóc”, cùng lang thang vô định trên “con đường bạch dương bóng chiều man mác”.

“Rằm tháng bảy, một ngày hội âm thầm của những oan hồn mà sống đã không nói được khát vọng của mình, và chết cũng không có lời để ta thán.

Nếu dương gian còn phảng phất một chút tình người, còn tưởng nhớ đến ân tình một thuở, thì một hạt muối và một bát nước trong cũng đủ rửa sạch cái oan khí tương truyền ngàn năm treo ngược.

“Vu Lan Thắng Hội, ngày hội cứu đảo huyền, ngày giải tỏa oan khiên treo ngược tội nhân trên rừng đao, biển lửa. Trong ngày đó, mười phương chư Phật đều nở nụ cười hoan hỷ, vì là ngày tha thứ giữa những người còn sống, biết cởi bỏ hận thù ràng buộc để sống, còn có ngày hội nào vui hơn, trước cái hứa hẹn một thế giới thanh bình có thể có?

Oan khiên trở thành ân nghĩa. Ân của trời đất, ân của cỏ cây, ân của đồng loại; ân nghĩa ấy đã thắt chặt tình người qua bao nhiêu kiếp, sao nhất thời lại có thể hờ hững trôi qua?

“Trong khoảng trời đất mịt mù, giữa những đêm dài lạnh lẽo, người chết còn biết trở lại dương gian xin một bát nước để rửa sạch oan khiên treo ngược, há người còn sống lại không biết âm thầm nở nụ cười hoan hỷ và tha thứ?”.

Đọc những dòng trên bằng cả một tấm lòng vị tha rộng mở, chúng ta đã thấy ra được phần nào ý nghĩa to lớn của ngày lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy. Như vậy, địa ngục thường mang ý nghĩa của một vai trò chủ đạo khi nhắc đến Vu Lan - Rằm Tháng Bảy, từ đó chúng ta khởi niệm và đồng cảm với tha nhân một cách dễ dàng, bởi địa ngục có là do sự cảm vời mà ra, như kinh Địa Tạng thường được Đức Phật lặp lại nhiều lần.

Hay nói như một danh nhân thế giớiĐịa ngục là do chân lý được nhìn ra quá trễ”. Do đó, Tagore-một nhà thơ lừng lẫy của Ấn Độ từng biểu cảm bằng ngôn ngữ triết lý qua câu thơ “Trong cái chết thì nhiều biến thành một, trong sự sống thì một biến thành nhiều“.

Thương yêu vượt qua biên giới của sự sống chết, mà địa ngục chỉ là phạm trù gạch nối, không phải là dấu chấm hết khẳng định.

Cúng rằm tháng bảy có nghĩa là chia sớt sự sống cho cảnh giới khác mà nhân gian thường gọi là “Cô Hồn Uổng Tử” còn vất vưởng chờ định và thọ nghiệp. Từ đó con người khi quay lại cuộc sống thực tại đời thường, chắc rằng không ai là không lân cảm với đồng loại.

Ý nghĩa đó là một chân lý tuyệt hảo của nhân loại đã sống và đã thực hành, dù không cùng chính kiến, giai cấp xã hội hay bất kỳ chủ thuyết tôn giáo nào.

Một ngày mà chúng ta không thắp lên ngọn lửa thương yêu,vì thế có biết bao nhiêu người chết vì giá lạnh“. Francois Mauriac cũng đã phải thốt lên như vậy .

Dân tộc chúng ta vốn có truyền thống đạo đức cao thượng, hiếu nghĩa vẹn tròn, khi tiếp nhận tư tưởng Phật giáo nói chung và Lễ Vu Lan nói riêng, đó là sự dung nạp lý tưởng đạo đức thuần nhất để hun đúc nên nếp sống chung cộng đồng.

Tuy nhiên sự hòa nhập đó trong qua trình phát triển vẫn không tránh khỏi sự đố kỵ, đôi lúc dẫn đến nguy vong bởi các khuynh hướng Nho - Khổng.

Mặc dù hệ tưởng này không mấy khác biệt với Phật giáo, phần lớn chung một nền tảng đạo lý phương Đông, nhưng ở tư tưởng Phật giáo thì cởi mở, phóng khoáng hơn, nên những đối kháng kia chỉ là trở ngại nhất thời trong một giai đoạn lịch sử.

Dù vậy khi có ưu thếquốc giáo - nói đúng hơn khi Phật giáo ở những thời kỳ cực thịnh bởi các hàng từ vua quan đến thứ dân đều tín hướng Phật đà, Phật giáo vẫn không ỷ thế cậy quyền đè bẹp các tư tưởng tôn giáo khác, ngược lại còn chủ trương “Tam Giáo Đồng nguyên”.

Những tư tưởng bài xích Phật giáo còn lưu lại điển hình như Trương Hán Siêu ghi trong Linh Tế Tháp Ký, Quang Nghiêm Tự Bi Văn; Hàn Dũ (Trung Hoa,768-823) với bài biểu Can Vua Đón Xương (Xá lợi) Phật; Lê Quát Mai Phong với bài Văn Bia chùa Thiệu Phúc, Thôn Bái, tỉnh Bắc Giang .v..v… đã không đủ sức đánh bạt làn gió đạo đức Phật giáo đang thổi mạnh khắp nơi, từ kinh thành đến những làng quê hẻo lánh.

Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi các bài trong Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi - bậc đại công thần nhà Lê ra đời với nội dung “Thương Người Như Thể Thương Thân phủ trùm tinh thần vị tha của Phật giáo. Chưa hết, trong kho tàng truyện cổ tích VN, không hiếm chuyện khắc họa hình tượng Ông Bụt (một dạng phương ngữ hóa từ chữ Phật) làm chủ thể ban thưởng cái thiện, Nhất là chuyện “Cây Nêu Ngày Tết”, chiếc y vàng của Phật với cái bóng ngả dài là dải đất yên bình cho người dân sinh sống.

Đó là những tiềm ấn sâu xa minh chứng cho sức sống trường tồn của Phật giáo. Cụ Tố Như Nguyễn Du, trong tuyệt tác truyện Kiều đều lấy triết lý Phật giáo làm nền tảng. Ngay đoạn mở đầu cũng phải dùng đến tư tưởng tài mệnh tương đố và kết thúc bằng sự khẳng định nhân - quả hẳn hoi.

Vì vậy nào phải ngẫu nhiên khi Cụ viết rằng:

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần hay xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài

(Truyện Kiều, câu 3249-3253)

Bên cạnh đó còn phải kể đến bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Đọc bài này, người ta càng ngạc nhiên hơn nếu cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều vì ảnh hưởng Phật giáo thì hoàn toàn lầm lẫn. Bởi vì ngôn ngữ, ngụ ý của bài Văn Tế Thập Loại chúng Sinh vô cùng chính xác, tứ cách diễn đạt các thế giới cho đến các từ Phật học, mà nếu không tường tận gốc tích tác giả, người ta dễ ngộ nhận cho đó là của một vị cao tăng nào đó viết. Thí Dụ :

Trời tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi mây lạnh ngắt xương khô
Nào người thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Dọc đường đê lác đác sương sa
Lòng não lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khí thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh 
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người…

…Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ nại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh
Phật hữu tình từ bi tế độ
Chớ ngại rằng có của cùng không
Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng
Nam Mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Trên là một vài dẫn dụ cho sức sống PGVN trong lòng dân tộc, đã tạo nên nét đẹp truyền thống văn hóa từ bao nhiêu thế kỷ nay. Vì thế Lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy không còn là của riêng Phật giáo, mà đã trở thành “Lịch Sinh Hoạt” hằng năm của người VN.

Theo đánh giá của Giáo sư Hoàng Như Mai thì “Ngày Lễ Vu Lan, Ngày rằm Tháng Bảy, Ngày Xá tội Vong Nhân có thể được coi là NGÀY TÌNH THƯƠNG VIỆT NAMcon người. Vì cuộc sống hiền hòa, an lạc, tiến bộ của con người“ (nguồn: Lễ Vu LanTình Thương của nhân dân ta, Hoàng Như Mai - Tập Văn Vu Lan 2531-1987).

Hơn thế nữa, một sự khẳng định tất yếu của lịch sử,ngày 26/01/1995, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao nước CHXHCNVN dõng dạc tuyên bố “…Phật tử Việt Nam là những người yêu nước, luôn luôn gắn bó với dân tộc qua mọi bước thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía tổ quốc đấu tranh chống ngoại xâm. ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI NGƯỜI VN KHÔNG CHỈ LÀ MỘT TÔN GIÁO MÀ CÒN LÀ MỘT BỘ PHẬN CỦA NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC TRUYỀN THỐNG.” (Nguồn: Báo SGGP-TTXVN ngày 26/01/1995).

Với niềm tin son sắt đó, với lòng tín hướng Phật Đà, một lần nữa chúng ta đón mừng ngày Lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy trên đất nước VN thân yêu với đủ đầy niềm tự hào song hành cùng dân tộc.

DƯƠNG KINH THÀNH

 (Ban Phật Giáo Việt Nam-Viện Nghiên Cứu Phật Học VN)

 ----------------------------------------------------

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23935)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 16019)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17274)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 13922)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14038)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15107)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20288)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18270)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17385)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 12705)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 64683)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 22855)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23396)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 22354)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 19182)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19105)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 17222)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 13100)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 13282)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 19301)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12462)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 14732)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13167)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13154)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 12000)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11800)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12682)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 11758)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11698)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10384)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11510)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9593)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9610)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9908)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 10115)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10063)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10010)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9614)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 15448)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9815)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13630)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9812)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9657)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18262)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12019)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9528)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9652)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8672)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8878)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8373)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 12296)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13273)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 9401)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11895)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9173)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9041)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9618)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 9039)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9058)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33179)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant