Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 4: Thời Chiến Tranh ở Thượng Hải

14 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7370)
Chương 4: Thời Chiến Tranh ở Thượng Hải

QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Tự Truyện Của Một Ni Sư Phật Giáo Người Tây Phương: Ayya Khema
Dịch từ tiếng Đức: Sherab Chodzin Kohn - Dịch từ tiếng Anh: Diệu Liên-Lý Thu Linh

Chương 4
Thời Chiến Tranh ở Thượng Hải

Thực chân nghĩ đó thực chân,
Phi chân biết đó phi chân mới là.

Tư duy chẳng chút vạy tà,

Người như thế ấy mới là đạt chân (1).

Kinh Pháp Cú - 12

Sau Kristallnacht năm 1938, giữa những người Do Thái ở Bá Linh có một câu chuyện tiếu lâm thường được kể: Hai người Do Thái đang đứng xếp hàng để xin hộ chiếu. Một người muốn đi Mỹ. "Còn anh định đi đâu", anh ta hỏi người bạn. Người kia trả lời: "Đến Thượng Hải". Người thứ nhất nói: "Xa dữ vậy sao?". "Xa tính từ đâu?", người bạn trả lời.

Phải có đầu óc khôi hài người ta mới nghĩ ra được những chuyện cười châm chọc đó. Đặc biệt người Do Tháibiệt tài đó -có lẽ vì trong lịch sử, họ có quá nhiều những sự bất hạnh. Có hàng trăm chuyện cười về người di dân Do Thái và những hoàn cảnh trớ trêu của họ. Như tôi đã nói, Thượng Hải lúc đó là chỗ nương thân cuối cùng của người Do Thái ở Châu Aâu. Phần lớn các nước khác đều đóng cửa biên giới. Uruguay gửi trả một thuyền đầy dân di tản trở về Đức. Mỹ và Úc thì chỉ nhận vào một số công dân đặc biệt.

Theo một ký kết hằng trăm năm về trước giữa Anh-Trung Hoa, Thượng Hải trở thành một thành phố tự do, nghĩa là ai vào cũng không cần hộ chiếu. Giữa những năm 1938-1941, hai mươi ngàn người Do Thái đã đến lánh nạn tại đây. Một nơi rất xa quê hương, nhưng sau này chúng tôi biết rằng như thế cũng chưa xa đủ.

Cha mẹ tôi đứng đợi dưới bến tàu khi chiếc Haruna Maru cập bờ. Khi nhìn thấy họ, một tảng đá -không, mười tảng đá- đang đè nặng trên tim tôi, bỗng biến mất. Cha tôi mặc chiếc áo khoác đen, ông vẫn thường mặc ở Bá Linh. Chúng tôi trèo lên hai chiếc xe kéo cùng với hành lý, trong có chiệc hộp đựng thuốc bằng vàng của cậu tôi (ở Luân Đôn) được giấu kín trong đó. Trời rất lạnh; các ngọn gió rét mướt từ các thảo nguyên Mông Cổ thổi qua các đường phố Thượng Hải như cắt da. Dầu vậy, áo hai người phu kéo xe vẫn đẩm ướt mồ hôi, đến đổi giống như hơi nước toát ra từ thân họ bay lên. Tôi không quen ngồi trong những xe kéo bằng người. Tôi được biết rất ít người làm nghề này sống lâu, ai cũng chết vì bịnh nghề nghiệp. Nhưng đó là cách người ta kiếm sống ở Thượng Hải. Không ai có thể thay đổi được điều đó -nhất là tôi. Cũng may sau này người ta đổi qua người đạp xe.

Chúng tôi đi qua khu vực dành cho người Pháp. Thượng Hải lúc đó là một cửa khẩu quốc tế tự do, có khu dành cho người Pháp, người Anh, Mỹ và Trung Hoa. Tôi nhận thấy đó là một thành phố tồi tàn trong một ngày mùa đông, chỉ trừ nơi có các ngân hàng, khu thương mại của người Anh thì khá hơn.

Hai người phu xe dừng trước một tòa chung cư khá đẹp. Tôi trèo lên các nấc thang với cha mẹ, cha tôi mở cửa ra, và tôi bước vào một căn phòng với đồ đạc bàn ghế từ Bá Linh. Không biết bằng cách nào đó, sau khi ra đi, cha mẹ tôi được người ta gửi tàu ra cho họ một ít bàn ghế, tranh, và mấy tấm thảm Ba Tư. Thật là một cảnh tượng lạ lùng, những đồ đạc quen thuộc ở một nơi xa lạ.

Cha tôi cùng với ba người Do Thái di tản từ Bá Linh đã mở được một tiệm quần áo may sẵn cho phụ nữ. Đó là một cửa hiệu sang trọng, nằm cạnh bên khách sạn Palace, cửa hàng rất phát đạt. Các phụ nữ Thượng Hải rất thích các loại quần áo Tây phương này, họ chưa từng thấy trước đó bao giờ. Tôi cũng được dịp sắm sửa từ cửa tiệm của cha. Quần áo tôi mang từ Bá Linh qua Tô Cách Lan, rồi từ Tô Cách Lan qua Trung Hoa đã trở nên quá ngắn, quá chật.

Tôi không có bằng cấp, không học vấn, không có gì cả. Cha tôi gửi tôi đi học ở trường kinh doanh Thượng Hải. Ông nói: "Nếu con được học đánh máy, sẽ có ích cho con suốt đời". Đó là cái nhìn rất sâu rộng. Đến bây giờ, hằng ngày tôi vẫn còn ngồi làm việc với chiếc bàn máy. Ngoài ra tôi cũng học kế toán, tốc ký, nhờ đó, sau này tôi có thể kiếm sống nuôi gia đình trong bao nhiêu năm.

Buổi chiều, sau giờ học, tôi đi chơi tennis. Trong một thời gian ngắn ở Thượng Hải, tôi đã có thể sống tự do, yêu đời như thuở nào.

Vào tháng 12, 1941, chiến tranh bùng nổThái Bình Dương. Nhật chiếm Thượng Hải cũng như một số nơi khác. Vào tháng 2, 1943, họ ra nghị quyết: Người di tản Aâu châu -có nghĩa là người Do Thái- phải bị hạn chế trong khu vực thành phố Hongkew; một khu ổ chuột, không có tường rào, nhưng đầy dây kẽm gai, và phải chịu sự cai trị của lực lượng quân sự Nhật Bản. Đó là do áp lực của chính phủ Đức. Nhật là đồng minh của Đức, và đối với Đức quốc xã, Thượng Hải cũng như bao nhiêu chỗ khác, không phải là quá xa đến nỗi họ không thể với tới, người Do Thái sống ở đó cũng không thể tránh khỏi sự trừng phạt của họ.

Đối với chúng tôi, điều đó có nghĩa là lại phải từ bỏ nhà cửa, công việc kinh doanh. Cha tôi lần nữa lại bị cướp đi cơ hội kiếm sống. Tôi tin rằng điều đó ảnh hưởng rất lớn đến người. Vì giờ, cha tôi không còn trẻ nữa.

Chúng tôi thuê hai phòng ở Hongkew, mang theo bàn ghế, thảm và một ít bộ ly pha lê. Cũng nhờ bán dần những thứ này mà chúng tôi có thể nuôi sống bản thân.

Trong thời gian đó, tôi nghiệm thấy rằng dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt thế nào, cuộc sống vẫn tiếp tục. Trong khu ổ chuột của chúng tôi, với gần mười tám ngàn dân từ các nơi như Đức, Czech, Hoà Lan, Aùo, và những nơi mà Hitler cai trị, đã mọc lên một cộng đồng có nhà thương, trường học, nhà hát, các quán càphê Viennes, nơi bạn có thể mua bánh nướng và nước táo. Chúng tôi cũng có báo chí, và các chương trình xã hội phục vụ trẻ con và người già. Con số trẻ em chết ở Hongkew vì môi trường thiếu vệ sinh, không có sữa, lên rất cao.

Mỗi sáng tôi rời khu ổ chuột, đến tối lại trở về. Tôi kiếm được việc làm với một công ty xuất khẩu. Tất cả tiền kiếm được tôi đều đưa cho cha. Chúng tôi sống rất cần kiệm. Có một quán cơm xã hội, chúng tôi có thể đến. Đồ ăn nấu cũng được, chỉ có điều các món không thay đổi: lúc nào cũng là kasha súp, với ít rau củ lội trong đó. Chúng tôi còn được phát cho loại bánh mì mà người già không thể nào ăn nổi vì nó cứng như đá. Vào các ngày lễ, chúng tôi mới dám mua khoảng hai mươi gram pâté hay một lạng càphê. Chúng tôi phải trả giá rất đắc cho những thứ này.

Cha tôi có một tấm bản đồ dán trên tường, trên đó ông đánh dấu những bước tiến của quân đội Đồng Minh bằng những cây kim nhỏ. Chúng tôi không được có radio. Nhưng đám con trai tự ráp radio lấy, giấu dưới nệm. Nhờ vậy, chúng tôi được biết quân Mỹ đã tiến đến đâu, và hy vọng là cơn ác mộng sẽ sớm chấm dứt.

Một ngày kia bom nổ ở khu ổ chuột. Nghe một tiếng động lớn, tôi chạy ra trước cửa nhà. Trước mắt tôi là một người quen, anh ta như bị đất chôn vùi, rồi tiếp theo tiếng nổ lớn , là một cột đất, và người đàn ông biến mất. Lúc đó, lần đầu tiên trong đời, tôi hoảng sợ đến mất cả tự chủ. Tôi cứ hét lên, không thể ngừng được cho đến khi cha tôi tát cho tôi một cái. "Chúng ta không làm được gì cả đâu. Hãy im ngay!", cha tôi quát.

Và tôi bình tĩnh trở lại. Từ đó không bao giờ tôi hoảng loạn như thế cả -tánh cách của tôi không giống như thế. Nhưng những gì tôi đã chứng kiến thật quá sức chịu đựng của tôi. Tôi vừa đứng cạnh một người, rồi ngay trước mắt tôi, anh biến ra thành những mảnh vụn. Anh là một nhạc sĩ trong các quán càphê Do Thái. Tôi vẫn thích nghe anh chơi nhạc.

Rất nhiều trái bom đã nổ trong ngày hôm ấy, rất nhiều người bị giếtCon đường trước cửa nhà tôi, máu chảy như nước mưa. Quân đội Mỹ định đánh phá đài phát thanh của Nhật, nhưng bị chệch mục tiêu

Có lẽ từ kinh nghiệm đó, tôi trở nên không còn sợ hãi sự chết nữa. Từ lúc đó, tôi không còn lo sợ không biết mình sẽ sống hay chết. Người ta sống phút này, phút sau đã chết. Tôi đã biết điều đó rất sớm.

Vào tháng 8, 1945, trước khi trái bom nguyên tử nổ ở Hiroshima, Nagasaki và chiến tranh chấm dứt, cha tôi bắt đầu bị đau vì những điều kiện sống khốc liệt. Bác sĩ chẩn đoán ông bị sỏi thận, và buộc phải giải phẩu, vì thế cha tôi đến bịnh viện. Dĩ nhiên, mọi phương tiện trong bịnh viện cũng chưa được hoàn bị, nhưng chúng tôi ai cũng nghĩ là ông sẽ qua khỏi. Vào ngày dự định mổ thì cha hơi sốt nhẹ. Cuộc giải phẩu phải đình lại. Hôm sau tôi vào thăm cha. Một vị bác sĩ đã gặp riêng tôi, nói: "Cha cô sẽ không qua khỏi cuộc giải phẩu này đâu". Lúc ở trong bịnh viện, cha bị nhiễm trùng não lây từ một người lính Nhật đã được mang vào trong tình trạng bịnh sắp chết. Không có thuốc chữa cho bịnh này. Lúc đó chưa có những thứ như thuốc kháng sinh.

Tôi vào phòng thăm cha. Ông đang nằm trên giường, có vẻ rất yếu. Có lẽ cha biết mình sẽ không qua khỏi. Có lẽ những người sắp chết đều biết. Cha rất tỉnh táo. Tôi nói với cha: "Cha ơi, con sẽ trở lại ngay. Con sẽ đi kêu Mẹ". Nói rồi tôi chạy như điên về nhà, nước mắt tuôn đầy trên mặt.

Khi trở lại bịnh viện, tôi cố đút cha ăn vài muỗng súp. Cha tôi đã không còn nuốt được nữa. Nhưng cha rất bình tĩnh. Cha nói: "Con biết cha thương con đến dường nào!". Cha chúc tôi tất cả mọi điều tốt đẹp nhất trong đời và nói sẽ tiếp tục lo lắng, bảo vệ tôi.

Tôi hoàn toàn không thể chịu đựng nỗi. Tôi không thể chấp nhận việc cha sắp ra đi -chỉ vài ngày trước đây thôi, cha vẫn còn là người khỏe mạnh. Sự ra đi của cha là một mất mát thật sự đối với tôi. Cái chết của nạn nhân chiến tranh đã là một cú sốc, nhưng lúc đó có cha đứng cạnh tôi, để khuyên tôi bình tĩnh.

Đối với tôi, cha là điểm tựa của cuộc đời tôi. Tôi đứng bên ngoài nghe Mẹ nói lời từ giã với cha. Một vài người bạn thân cũng đến. Rồi cha nhắm mắt. Tôi không thể khóc nữa. Phải thật lâu sau, tôi mới có thể khóc được.

Năm ngày sau đó, chiến tranh chấm dứt. Cha tôi đã mong đợi hoà bình biết bao nhiêu, nhưng ông đã không còn sống để đón hoà bình.

Mẹ tôi như tê liệt, bà không còn làm gì được nữa. Tôi phải lo tất cả, từ đám táng đến ổn định lại cuộc sống của chúng tôi. Quân đội Mỹ tiến vào Thượng Hải. Những người lính Mỹ phát kẹo cho chúng tôi. Nhưng ngay họ cũng không thể cho chúng tôi được một căn hộ. Chúng tôi phải tiếp tục sống trong hai căn phòng tồi tệ đó.

Hai năm trước đó, vì người Nhật, chúng tôi đã bị mất cửa tiệm, và hầu hết tài sản. Tôi cố gắng đòi lại phần nào, nhưng vô ích. Tất cả đều đã mất.

Vài tháng sau, mẹ tôi lập lại gia đình với một người bạn từ thời thơ ấu ở Bá Linh. Ơng ta cũng sống trong khu ổ chuột này. Từ đó trở đi, tôi hoàn toàn cô đơn, không cha, không mẹ -vì bà đã dành hết mọi tình cảm cho cuộc hôn nhân mới. Tôi không thể hiểu được điều đó. Tôi nghĩ là mẹ cần có thời gian để quên nỗi đau mất chồng. Nhưng giờ tôi có thể nhìn sự việc dưới khía cạnh khác. Mẹ tôi là người đàn bà hiền hậu, nhưng bà rất yếu đuối, sợ hãi. Bà không thể tự lo cho cuộc sống của mình, cũng như nhiều phụ nữ khác thuộc thế hệ của bà. Bà cần có ai đó để bảo vệ, che chở.

Tôi đã hai mươi hai tuổi, và đã trở thành một thiếu nữ khá xinh đẹp, nếu tôi có thể nói thế từ những bức ảnh tôi còn giữ lại. Có thể bức ảnh cũng đã được tôn tạo, vì trong đó lông mi của tôi dài một cách giả tạo. Nhưng cũng có thể nói tôi là một thiếu nữ khá xinh đẹp. Một ngày kia tôi gặp một người đàn ông lớn hơn tôi mười bảy tuổi. Ơng cũng là người Do Thái từ Đức đến; tên ông ta là Johannes.

Có thể ông đã thay thế hình ảnh cha tôi trong lòng tôi. Bạn bè, người quen đều nói là ông không xứng với tôi. Nhưng tôi không nghĩ thế -thế là tôi lập gia đình với ông ta. Chúng tôi dọn vào một căn hộ bé tí ở Hongkew. Có điện, nhưng nước thì chỉ có ở phía sân sau nhà. Chúng tôi có một lò sưởi nhỏ để sưởi ấm. Nhưng không bao giờ tôi đốt được lò sưởi, vì thế nhà tôi lúc nào cũng lạnh vào mùa đông.

Chồng tôi có phần hùn với người em họ ở một xưởng may áo chemise, làm ăn cũng khá. Tôi tìm được việc, làm thư ký cho quân đội Mỹ đang đóng ở đây, được hai trăm đô một tháng. Đó là một số tiền rất lớn ở Trung Hoa thời đó, có thể nuôi cả gia đình hai mươi nhân khẩu. Nghĩa là chúng tôi trở nên khá giả hơn. Tôi được quyền mua sắm đồ ở PX, cửa hàng chỉ dành cho nhân viên sở Mỹ. Có rất nhiều thứ ở đó, thí dụ như kem đánh răng, xà-phòng thơm, sữa bột. Tôi còn mướn được một amma, bà vú Trung Hoa. Tôi học được ít tiếng Thượng Hải từ bà, thứ tiếng địa phương mà người nơi khác không thể hiểu được. Khi tôi sanh Irene, con gái tôi vào năm 1947, bà vú giúp tôi rất nhiều. Việc nặng nề khó nhọc nhất là bà giúp tôi giặt bao nhiêu là tả ở sân sau nhà. 

Hầu hết người Do Thái sống trong các trại tập trung ở đây đều muốn được qua Mỹ. Người Mỹ cũng chấp nhận chúng tôi, nhưng giấy tờ hành chánh thì quá nhiêu khê. Các chuyến đi Mỹ phải đi cùng với quân đội Mỹ trên các chiến hạm, chúng tôi chờ đợi đến vô vọng. Mẹ tôi và chồng bà được đi trước cả chúng tôi

Cuối cùng khi quân đội của Mao Trạch Đông tiến vào Thượng Hải, lúc đó mới tới lượt chúng tôiChúng tôi rời Thượng Hải trên chiến hạm cuối cùng vào năm 1949. Những ai không lên được chuyến tàu đó đều bị bắt lại. Như thế tôi vẫn còn may mắn. Như tôi đã may mắn được lên chuyến tàu cuối cùng đưa trẻ con ra khỏi Đức vào năm 1939.

Các chiến hạm có thể chứa khoảng từ một ngàn rưỡi đến một ngàn tám trăm người, đàn ông đàn bà ở riêng. Chúng tôi gồm sáu người mẹ và sáu em bé ở trong một cabin. Mấy đứa bé như đã hợp đồng, không khóc cùng một lúc, mà cứ hết đứa này khóc thì đến đứa kia. Chúng tôi hầu như không thể chợp mắt được.

Dầu gì chúng tôi cũng trên đường vượt Thái Bình Dương! Trên đường đến San Francisco! Tôi còn nhớ lần đầu tiên tôi nhìn thấy chiếc cầu Golden Gate, đẹp tuyệt vời qua lớp sương sớm. Trên bến, một ban nhạc đang chơi bài hát nổi tiếng: "San Francisco, hãy mở cầu Golden Gate".

Lần nữa, một cuộc đời mới lại bắt đầu. Không biết đã bao nhiêu lần như thế rồi? Dần dần tôi học đứng trở dậy trên đôi chân mình khi vấp ngã, giống như thằng người đồ chơi mỗi lần bị đấm ngã, lại chồi trở dậy. Giờ tôi là một phụ nữ đã có chồng con, hai mươi sáu tuổi, vẫn chưa có giấy tờ hợp pháp, nhưng đã có chút đỉnh tiền để dànhTuy nhiên tôi có cảm giác như chưa được yên: còn cứ phải chống chọi với bao nghịch cảnh, và phải cắn răng chịu đựng. Nhưng để làm gì chứ?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17651)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24484)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25986)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13770)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13174)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22043)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19068)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10002)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11906)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13039)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15181)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10536)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21815)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10119)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9844)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9744)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10189)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27382)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17831)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13189)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25140)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34643)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26749)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19061)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13084)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9001)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9132)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11793)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18517)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8775)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10664)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10951)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27995)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17875)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14409)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16360)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13201)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15522)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14689)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7594)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17036)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8385)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30709)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant