Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Thám Hiểm Nam Mỹ

14 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7471)
Chương 7: Thám Hiểm Nam Mỹ

QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Tự Truyện Của Một Ni Sư Phật Giáo Người Tây Phương: Ayya Khema
Dịch từ tiếng Đức: Sherab Chodzin Kohn - Dịch từ tiếng Anh: Diệu Liên-Lý Thu Linh

Chương 7
Thám Hiểm Nam Mỹ

Từ ái, sinh lo âu
Từ ái, sinh sợ hãi

Những ai đã lià xa ái

Không lo âu, không hãi sợ điều chi.

Kinh Pháp Cú - 212

Tôi rất xúc động khi đọc những lời Đức Phật dạy trong câu Kinh Pháp Cú trên. Nhưng khoảng thời gian mà tôi viết lại ở đây, là khoảng thời gian tôi vẫn còn là một thiếu phụ trẻ, còn chưa biết có những câu kinh như thế hiện hữu; mà dầu có biết, có lẽ tôi cũng không thể hiểu được ở thời điểm đó. "Những ai đã lìa xa ái" là nghĩa gì? Ngày nay, tôi hiểu câu đó không có nghĩa là ta không nên yêu thương ai. Chỉ có nghĩa là ta đừng bám víu vào những gì ta ưa thích, nhất là người ta thương đến độ ta luôn nghĩ suy, lo lắng về họ. Ở thời điểm đó, tôi còn đắm trong vòng luyến ái buộc ràng. Tôi luôn sống trong trạng thái lo lắng. Cuộc du hành của chúng tôi không có bảo hiểm hành lý, sức khỏe, vân vân như ngày nay người ta du lịch với tất cả mọi thứ đều được bảo hiểm. 

Chuyến đi của chúng tôi đầy bất trắc. Nhưng ngay trong những phút giây nguy kịch nhất, trong những giây phút ở giữa sống chết, tôi bỗng hiểu ra buông xả là gì. Có nghĩa là không bám víu, không cố gắng để làm chủ, để quyết định mọi việc gì có thể xảy ra. Có nghĩa là dầu có ta hay không, người thân của ta, sở hữu của ta vẫn tồn tại -cũng như ngược lại, tôi vẫn hiện hữu mà không cần có họ, không cần có những thứ sở hưũ đó. Tuy nhiên phải một thời gian lâu sau, ý niệm này mới thực sự thấm sâu vào nội tâm tôi, còn lúc đó nó chỉ mới tượng hình trong tôi.

Giờ trở lại với Quito, trạm dừng chân đầu tiên của chúng tôi ở Nam Mỹ. Ở Quito, chúng tôi có nghe về một bộ lạc được gọi là Los Colorados, có nghĩa là "Bộ Lạc Sắc Màu". Đó là một bộ lạc nhỏ ở Eucador, rất nổi tiếng về cách trị bịnh bằng thảo dược. Bất chấp hiểm nguy, chúng tôi quyết phải tìm gặp bộ lạc Sắc Màu. Vì thế, dầu sợ hãi, chúng tôi vẫn một lần nữa, leo lên xe buýt đi về miền núi, nơi người ta bảo là chúng tôi sẽ được gặp những người trong bộ lạc đi chợ ở một làng nhỏ trong vùng.

Chuyến đi này còn tệ hại hơn chuyến vừa rồi. Đường xá chật hẹp, chỉ vừa đủ cho một chiếc xe, lại vòng vèo, bên thì đồi núi cheo leo, bên là vực thẳm hun hút. Bác tài thì lái bất cần, luôn quay lại phía sau khi có tiếng trẻ con khóc, hay liếc nhìn lũ chim bay ngoài khung cửa. Phải mất ba tiếng rưỡi mới đến nơi. Tôi cứ thầm lo lắng, việc gì sẽ xảy ra nếu có một chiếc xe chạy ngược chiều đến. May mắn thay, suốt chuyến đi đã không có chuyện đó xảy ra.

Cuối cùng chúng tôi đặt chân đến một thành phố nhỏ gọi là Ciudad de Colorados, thành phố Colorados. Và đúng như lời đồn, chúng tôi thấy ngay những "bộ quần áo" sặc sỡ trong chợ. Họ không mặc gì phía trên, kể cả phụ nữ, nhưng người họ đầy những lằn sơn màu xanh. Họ quấn củn, đàn ông củn ngắn, đàn bà thì dài hơn, vẽ đầy những sọc màu xanh. Đầu họ đội những chiếc mũ nhỏ, màu đỏ rực.

Chúng tôi bắt chuyện với hai người trong nhóm họ. Tôi hỏi người cao tuổi, nón họ làm bằng gì, tôi không thể đoán được vì màu sắc quá chói chang. "Nón gì?", anh ta hỏi lại. Thì ra đó là tóc họ. Và đó là màu sắc đặc biệt của bộ lạc Sắc Màu. Họ dùng một loại dâu có màu đỏ chà sát vào tóc cho đến khi nó trở nên dầy cứng, sau đó vuốt tóc thành như những cái nón. Đàn ông đã có gia đình thì chỉ để tóc như thế. Thanh niên thì buộc thêm những sợi dây vải trên đó, để mọi người -nhất là phụ nữ- biết họ còn chưa có ai.

Tôi hỏi thêm bao lâu thì họ phải làm những kiểu đầu như thế. Chỉ nữa năm họ mới phải làm một lần, cũng thực dụng đó chứ. Chúng tôi chụp hình họ với Jeff. Sau đó, họ mời chúng tôi theo về bộ lạc. Chúng tôi đi trên những chiếc xe ngựa nhỏ. Đường xá hơi dằn xóc, nhưng cũng còn dễ chịu hơn đi trên xe buýt. 

Bộ lạc Sắc Màu là một bộ tộc da đỏ sắp bị diệt chủng. Lúc đó, chỉ còn khoảng năm trăm người, tất cả sống trong ngôi làng này và vùng lân cận. Họ hái những thứ cây lá họ đã quen dùng từ thuở xa xưa để làm thuốc. Những người trẻ tuổi thì bỏ về sống ở thành thị. Họ không muốn trở thành các thầy thuốc lá cây như tổ tiên họ, nhưng muốn trở thành các bác sĩ tân tiến ở thành thị. Họ muốn làm ra tiền, và cũng không muốn phải đội cái đầu đỏ, với dây nhợ luồm thuồm đi khắp nơi.

Chúng tôi được dân trong bộ lạc tiếp đãi rất tử tế. Họ sống trong những căn nhà sàn làm bằng cây gỗ rất đẹp. Khoảng trống phía dưới nhà, treo đầy các loại dị thảo. Họ có tên gọi cho mỗi loại, nhưng vì bất đồng ngôn ngữ, nên chúng tôi cũng không học hỏi được gì từ những kiến thức kỳ bí của họ về các loài cây. Có lẽ ngày nay các kiến thức đó cũng đã mai một. Vì người trưởng lảo nói với chúng tôi, thanh niên trai trẻ bây giờ muốn thay đổi cách sống. Họ mặc quần jeans - lúc đó đang rất hiếm, chứ không phải là những chiếc váy có sọc xanh của bộ lạc Sắc Màu. Mua được một chiếc quần jeans, người ta có thể mua hết nửa ngôi làng.

Họ mời chúng tôi dùng bữa. Trước mặt chúng tôi là đủ loại trái cây bắt mắt. Những quả đu đủ, bên trong có màu đỏ như máu, mà tôi chưa bao giờ thấy. Rồi còn có loại chuối đỏ và cơm hấp với rau cải. Họ nuôi gà để ăn trứng. Chỉ đến khi gà thật già, mới bị làm thịt. Bộ lạc Sắc Màu không sống nhờ vào săn bắn. Đây là một bộ lạc nhỏ bé hiền hòa.

Lần viếng thăm đó để lại nhiều ấn tượng sâu xa đối với tôi. Tôi như còn thấy trước mắt tôi người đàn bà ngồi nướng chuối cho chúng tôi bên lò than hồng. Giờ này họ đã ra sao rồi? Thật là buồn khi nghĩ đến những thay đổi dân tộc họ phải trải qua. Có lẽ ngôi làng nhỏ với những dãy nhà sàn không còn nữa. Có lẽ không còn ai đi hái lá cây về làm thuốc nữa.

Từ Quito, chúng tôi đáp máy bay để đến một địa danh khác, Lima. Tôi không thể nào có can đảm tiếp tục cuộc hành trình trên xe buýt nữa. Dầu phải hết sức tiết kiệm, nhưng mặc, tôi cần phải lấy lại sức, tôi cần phải được ngồi trên máy bay một lần nữa.

Đến Lima, chúng tôi thuê phòng ở một khách sạn rẻ tiền, vì chỗ ở của chúng tôi trên xe jeep, đã không còn nữa, chúng tôi đã bỏ nó lại ở Panama. Trong những tuần sau đó, tôi bắt gặp mình hay nhớ về chiếc xe jeep đó. Chúng tôi đã ngủ bao đêm êm ấm trên đó, nó đã gan lì chở chúng tôi qua bao con sông. Nhưng tất cả những gì chúng tôi đã trải qua chỉ là chuyện nhỏ so với những gì đang chờ đợi chúng tôi ở phía trước.

Từ Lima, chúng tôi muốn đi đến vùng Amazon. Muốn vậy, chúng tôi lại phải lấy xe buýt để đến Andes. Khi chúng tôi trèo lên chiếc xe lung lay –như được buộc lại với nhau bằng những sợi dây thun- chúng tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả các hành khách người bản xứ ai cũng mang theo nhiều lát chanh, mà chốc chốc họ lại lấy ra bỏ vào miệng ngậm. Lúc mà chúng tôi hiểu được giá trị của những miếng chanh đó thì đã quá trễ.

Chiếc xe buýt đã gầm rú leo lên đồi ở độ cao 4.700 mét. Ở độ cao đó, bạn sẽ bị say sóng: đó là, bạn bắt đầu thấy nhức đầu, muốn ói. Dân bản xứ đã biết ăn chanh sẽ chặn được những triệu chứng đó không xảy ra. Chúng tôi cũng mua lại được một ít chanh, nhưng đến lúc đó thì chúng tôi đã quá say sóng, có chanh cũng không ích lợi gì.

Tất cả hành khách đều mệt lử khi xe lên đến đỉnh cao nhất. Bác tài quyết định dừng lại cho chúng tôi nghỉ vài phút. Dân bản xứ bày gà và bánh mì ra ăn. Sau đó, chúng tôi xuống núi đến Pucallpa. Trên bản đồ, Pucallpa là một thành phố, nhưng đến nơi, đó chỉ là một ngôi làng nghèo, đông dân bên dòng sông Ucayali. Ucayali chảy ra nhập vào với sông Maranon để tạo thành vùng tam giác Amazon.

Chúng tôi muốn đi dọc theo dòng sông, xuống đến Amazon. Có một chuyến tàu chạy bằng hơi xuôi dòng xuống đó trong thời gian một tuần. Đó là chiếc tàu có những bánh lái quay, chiếc tàu duy nhất còn xuôi ngược trên dòng Ucayali. Tàu chạy bằng than đốt, và một bánh lái to bằng gỗ quay chậm chạpChúng tôi đặt một phòng trên chiếc tàu cổ xưa này.

Cuộc hành trình trên sông không hoàn toàn êm ái. Tàu phải cập bờ mỗi ngày để lấy thêm than. Trên tàu có một phòng tắm cho khách, nhưng không sử dụng được vì người ta nhốt các chú rùa trong đó, để mỗi ngày luộc một con làm bữa ăn cho khách. Các chú rùa cần nước, vì thế chúng chiếm đóng phòng tắm. Ngoài thịt rùa, những thức ăn được dọn lên cho chúng tôi mỗi ngày là những món dở nhất mà tôi được nếm qua. May mắnchúng tôimang theo ít thức ăn, chỉ có chuối là khá ngon.

Nhưng có lẽ cái khổ nhất vẫn là nước. Người đầu bếp múc nước từ dưới sông Ucayali lên nấu. Từ con sông mà dân ở hai bên bờ và trên các tàu vẫn phóng uế xuống đó. Chúng tôi phải nấu trà bằng nước đó. Vì thế Jeffrey bị bịnh gấn chết. Cũng may tôi có mang theo ít thuốc trụ sinh. Không có thuốc, chắc là cháu đã chết. Kể từ đó, chúng tôi không dám uống ngụm trà nào mà không bỏ vào bình trà ít viên thuốc tẩy trùng, mà tôi đã mang theo trong túi thuốc du lịch của mình.

Một lần khi Gerd sắp xuống sông tắm. Mọi người la lên: "Piranhas, Piranhas!" Đó là những con cá nhỏ với những chiếc răng bén như lưỡi dao lam, thường đi từng đoàn cả trăm con một lúc. Kẻ nào không may gặp chúng thì sẽ trở thành bộ xương chỉ trong vài phút sau. May mà Gerd đã nhanh chân trèo dây trở lên thuyền.

Khi tàu vào lấy than, chúng tôi cũng lên bờ, ngắm những ngôi làng nghèo nàn ở quanh đó. Sự nghèo khổ không thể diễn tả được trùm phủ khắp nơi này. Trái ngược với cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời ở đây, bạn chỉ nhìn thấy sự dơ dáy bẩn thỉu, bịnh hoạn và suy dinh dưỡng.

Rồi một buổi sáng kia, cánh quay của tàu bị mắc cạn trong cát. Chúng tôi vừa qua khỏi chỗ giáp của hai con sông Maranon và Uyacali để tạo thành vùng Amazon. Lý do là vì lão thuyền trưởng say rượu như mọi ngày, nên mới ra cớ sự

Lúc đó có cá Piranhas hay không, mọi người đều phải nhảy xuống nước để đẩy tàu ra khỏi chỗ mắc cạn. Nhưng hoài công. Tai nạn của chúng tôi được loan truyền nhanh chóng đến dân ngụ cư dọc theo hai bên bờ sông như pháo nổ. Những chiếc ghe nhỏ bắt đầu đổ ra từ mọi phía. Hành khách, sau khi thấy không còn hy vọng gì, bèn lần lượt trèo lên những chiếc ghe nhỏ này. Họ không cần biết sẽ được chở tới đâu, miễn là ra khỏi nơi này.

Chúng tôi hơi do dự, nhưng rồi sau cũng phải trèo lên một chiếc ghe nhỏ tí teo, và được chèo đến một làng không có tên trên bản đồ gọi là Orellana. Cuối cùng chúng tôi phải ở lại làng Orellana, trong khu vực Amazon, đến bốn tuần. Tôi đã viết một bài báo về biến cố này cho một tờ báo Mỹ, kèm theo các bức ảnh trong đó tôi thường mặc cái váy Mễ, với áo trắng. Vì ngoài cái quần nhung đen, đó là tất cả quần áo tôi có. Tôi cứ phải luôn giặt giũ chúng, vì không có cách gì tôi có thể mang thêm quần áo trong cái túi đeo lưng nhỏ. Bài báo được đăng dưới tựa đề: "Trăng trên dòng Ucayali".

Không thể gọi Orellana là một thị xã với vỏn vẹn khoảng hai mươi nhà và một nhà thờ. Chỉ có hai người đàn ông có quyền hành ở đây: đó là nhà truyền giáo người Tây Ban Nha và ông chủ hãng máy cưa gỗ. Ông chủ hãng máy cưa rất giàu; ông có cả xe hơi. Ông nói với chúng tôi ông là người Do Thái và con trai ông đang du học ở Glasgow. Ông ta có thể nói được tiếng Anh. Thật là một cuộc gặp gỡ hi hữu ở góc trời xa vắng này.

Ở Orellana không có nhà trọ để lữ khách ở qua đêm, nên ông chủ máy cưa phải dọn dẹp một nhà kho trống thành chỗ ở cho chúng tôi. Ông còn cho chúng tôi muốn xài bao nhiêu gỗ tùy ý. Gerd biến những miếng ván thành một chiếc giường ngủ. Nhờ mấy cái túi ngủ, chúng tôi trải lên giường thành một chỗ nằm êm ái. Vì nhà chứa không có cửa sổ, nên lúc nào chúng tôi cũng phải để cửa cái mở toang. Hẳn là người ta đồn nhau có mấy người ngoại quốc sống ở đây. Nên lũ trẻ trong làng -tôi nghĩ có lẽ là khoảng bốn mươi tất cả- kéo đến đứng suốt ngày ở cửa để xem chúng tôi làm gì. Điều đó không dễ chịu chút nào; chúng tôi hoàn toàn không có chút riêng tư gì.

Sau chúng tôi khám phá ra có một tiệm ăn ở Orellana nấu ăn cũng tạm được, nên chúng tôi đều đến đó mỗi ngày để ăn cá -phải có gì bỏ vào bụng thôi. Cá ở đây vừa được bắt lên từ sông nên rất tươi, rất ngon. Chúng tôi cũng được quen với vị truyền giáo. Ông hay dẫn chúng tôi vào các khu rừng tìm những con bướm to mà tôi chưa thấy ở nơi nào khác. Cánh của chúng có đến nửa thước, với nhiều màu sắc rực rỡ. Ở đó cũng có rắn đủ loại -nhỏ, to, đủ màu sắc. Dĩ nhiênchúng tôi không bao giờ dám đến gần chúng.

Vị truyền giáo còn nói cho chúng tôi biết là đi sâu hơn nữa vào rừng có những bộ lạc chuyên săn đầu người. Cứ một vài năm họ lại đi gây chiến với các bộ lạc khác, rồi cắt đầu những kẻ bại trận, đem phơi khô. Khi thấy tôi kinh hãi quá, ông vội trấn an rằng nhưng cũng phải còn lâu lắm họ mới trở lại, vì họ vừa kết thúc một cuộc gây chiến gần đây. Có lẽ ông chỉ nói vậy để xoa dịu nỗi sợ hãi của tôi thôi.

Sau đó, chúng tôi lại thấy các đầu người phơi khô bày bán trong các tiệm bán đồ lưu niệm ở các thành phố ở Amazon. Chúng nhỏ bằng kích cở một trái táo, nhưng mặt người thật có mắt, có tóc. Và bán với giá cắt cổ. Những thứ đó thì chẳng bao giờ chúng tôi đụng tới.

Mỗi ngày đều có tin là chuyến tàu của chúng tôi lại bắt đầu xuôi dòng xuống cuối nguồn sông. Nhưng điều đó đã chẳng bao giờ xảy ra. Rồi lại có tin một chiếc tàu lớn sẽ đến giúp chúng tôi. Chiếc tàu đó có đến thực, nhưng nó chẳng dừng lại cho chúng tôi lên. Cuối cùng chúng tôi biết là nếu cứ chờ đợi, chúng tôi sẽ không đi đến đâu cả. Phải tự lo cho mình thôi.

Chúng tôi đành phải mướn một chiếc thuyền nhỏ, bằng cây, chạy bằng motor, phiá trên có che mái tôn. Ít nhất chúng tôi có thể ngồi trốn cái nắng chết người ở dưới mái tôn đó. Chúng tôi dự định đến Iquitos, là một thành phố lớn gần đó, dọc theo bờ sông. 

Amazon không phải là một con sông hiền hòa, êm ái. Mỗi lần phải lướt qua những con sóng cao trên chiếc thuyền làm bằng thân cây này là tôi không thể không thấy lo sợ. Tôi lo sợ nhất là cho Jeff. Cũng may là cậu bé chỉ mãi chơi đùa, vọc nước tìm cá. Không giống như tôi, cậu bé tận hưởng thú vui trên sông nước.

Mỗi khi chiều đến, chúng tôi phải lên bờ để ngủ, vì thuyền nhỏ quá. Lúc nào cũng giống nhau: phải kéo thuyền lên bờ, sợ nó trôi dạt theo sóng; vào sâu trong đất liền xa đám bùn ở bến sông; rồi đốt lửa để vừa sưởi ấm vừa đuổi những con muỗi to bằng con ruồi, lại là nguồn gây bịnh dịch.

Lúc nào cũng có các loại cây trôi dạt tấp vào bờ quanh đó để chúng tôi dùng đốt lửa. Và người chủ tàu rất giỏi dắn -anh ta có thể nhóm lửa cả với các thứ ẩm ướt đó. Khi nào còn lửa, thì muỗi còn tránh ra xa. Nhưng lúc chúng tôi gục ngủ, lửa lại tàn, thì đó là lúc chúng bắt đầu tấn công. Vì thế không phải là chúng tôi được yên ổn vào ban đêm.

Ban ngày, chúng tôi thường phải ngừng đâu đó để mua đồ ăn. Đó cũng là một vấn đề, vì người dân quanh đó còn không có gì để ăn. Họ cũng muốn lấy được tiền của chúng tôi lắm, nhưng thường họ không có gì để bán. Chỉ vài trái chuối hay đu đủ. Một lần duy nhất chúng tôi gặp được một lò nướng bánh mì thực sự có bánh mì. Nhưng không hiểu sao, chúng tôi cũng chưa bị đói bao giờ.

Sau một tuần, chúng tôi đặt chân đến Iquitos. Điều đầu tiên đập vào mắt chúng tôi khi vừa chui ra khỏi thuyền là một người đàn ông đang dắt dây một con vật gì đó. Một con vật chúng tôi chưa thấy bao giờ, có lông xù, và mũi dài quắm. Thực ra nó giống như một con chuột xù, mà sau này tra cứu tự điển bách khoa, tôi biết chúng thường sống ở các vùng nhiệt đới của Nam Mỹ.

Nhiệt đới cũng không phải là từ chính xác đễ diễn tả cái nóng như điên dại ở Iquitos. Chúng tôi trả tiền người chủ thuyền, rồi lê mình, cùng đồ đạc đến một khách sạn nhỏ, rẻ tiền có tên là khách sạn Peru. "Hãy nhìn kìa", tôi nói với Jeff khi lần đầu tiên sau bốn tuần lễ, chúng tôi mới đặt chân đến một nơi có những điều kiện khá văn minh, "khách sạn này mang tên xứ sở chúng ta vừa đặt chân đến đấy".

Nhưng trước khi đi tìm nhà hàng để ăn, chúng tôi chạy ngay đến bưu điện để gửi cho mẹ tôi và Irene một cái điện tín. Họ đã bặt tin chúng tôi quá lâu rồi, chắc là họ cũng đang rất lo âu. Đó là một bưu điện rất cổ xưa với các quầy tiếp khách bằng gỗ rất cao, làm một người không cao lắm như tôi phải vất vả lắm mới với tới được.

Khi tôi quay ra, thì Jeff biến đâu mất. Gerd ở phòng bên đang gửi mấy cái thư chúng tôi đã viết từ lâu, cũng không thấy cậu bé. Ngoài hành lang của bưu điện cũng không có bóng cậu bé. Nó đã biến mất như thể đã chui trốn xuống đất. 

Những giờ sau đó là một cơn ác mộng dài đối với chúng tôiChúng tôi chạy khắp phố trong cái nóng không tưởng được, hỏi thăm tất cả mọi người có ai thấy một cậu bé người châu Aâu. Không có ai thấy cả. Tất cả mọi con đường ở Iquitos đều tận cùng bằng bìa rừng như thể đó là bức tường bao bọc, nhưng ở phía sau bìa rừng là rắn rít và những con thú hoang dại khác.

Tôi gần như sắp ngã gục vì sợ hãi. Gerd chạy báo cảnh sát rằng chúng tôi đã lạc mất con. Người cảnh sát hỏi: "Bao nhiêu tuổi?", "Năm tuổi", Gerd trả lời. Viên cảnh sát nói, vừa cạo đất trong móng tay, "Không, tôi hỏi anh, anh bao nhiêu tuổi?" Quá chán nản, chúng tôi bỏ mặc viên cảnh sát ngồi đó, chạy trở lại khách sạn. Và kìa Jeffrey đang ngồi trên ghế sofa trong phòng tiếp tân của khách sạn. Cậu bé hỏi chúng tôi đầy trách móc: "Mẹ, hai người biến đâu mất từ nãy giờ?" Cậu bé đã ngồi đó gần bốn tiếng đồng hồ, mà cũng không nói với nhân viên khách sạn rằng đã lạc cha mẹ. Thì ra khi không thể tìm được chúng tôi ở bưu điện, cậu bé đã nhờ người qua đường dẫn đến khách sạn có tên giống như xứ sở chúng tôi đang có mặt. 

Giờ nhắc đến chuyện đó, Jeff không còn nhớ gì, nhưng tôi, thì tôi vẫn nhớ như in từng giây phút đó. "Do ái sinh lo lắng, do ái sinh sợ hãi". Tôi nghĩ là từ ngày đó, những lời Phật dạy đã có trong tôi -nhưng do vô minh mà không nhận ra.

Chúng tôi ở lại Iquitos lâu hơn dự định. Một người thợ hớt tóc, vừa là thợ nhồi các con thú, đã hớt tóc cho Gerd. Trong 'xưởng' của anh ta có một con rắn còn sống, mà anh ta rất hãnh diện đem khoe với Gerd. Anh ta nói, khi nào có thì giờ anh ta sẽ làm thịt nó, rồi nhồi xác. 

Đây là một loại rắn lớn nhất Nam Mỹ, được gọi là anaconda. Có con dài đến sáu thước, thân to đến khoảng hơn nửa thước. Có màu da rất đẹp Trên lưng màu xanh nhạt và đen, hai bên sườn lốm đốm những chấm vàng đậm lợt. Gerd cảm thấy xót xa cho con vật. Nhưng rồi anh nghĩ, nếu nó không chỉ ăn các sinh vật nhỏ bé, mà còn ăn cả thịt người thì sao. Nhưng đối với người thợ hớt tóc thì không có gì phải nghĩ ngợi về con rắn này cả.

Từ Iquitos, chúng tôi bay trở về Lima. Đáng lý ra chúng tôi cũng có thể lên tàu khác đi tiếp -chuyến đi dự định trong hai tuần lễ- nhưng sau kinh nghiệm ờ vùng Amazon, chúng tôi không có can đảm tiếp tục cuộc hành trình. Ai biết rồi chiếc tàu chạy bằng hơi này sẽ lại bị mắc cạn ở đâu nữa?

Từ Lima, chúng tôi lại bay sang La Paz ở Bolivia, rồi từ đó qua Brazil, chứ không dừng lại ở Argentina. Ở Brazil, tôi có một ít bà con, nên ghé qua thăm họ. Họ quá đổi kinh ngạc khi gặp lại tôi, vì họ tưởng tôi đã chết ở Đức hồi ấy.

Ở Brazil, người ta nói tiếng Portuguese. Từ lâu, tôi vẫn tưởng tiếng Portuguese và tiếng Tây Ban Nha, không mấy khác biệt đến nỗi có thể gây khó khăn cho chúng tôi. Nhưng giờ tôi mới thấy mình hoàn toàn không hiểu một chữ tiếng Portuguese, mà cũng không có ai biết nói tiếng Anh. Tình thế cũng khá gay go. Nhưng dầu gì chúng tôi cũng đã ở Rio, và muốn đi thăm Sugarloaf. Ở bãi biển Copacabana, chúng tôi mua cho Jeff một con diều thật to, chú bé thích chí cầm diều chạy qua chạy lại trên bãi biển. Từ đó chúng tôi đi qua Sao Paulo, định là sau đó sẽ đến Brasilia. Đó là thủ đô mới của Brazil, vừa tạo lập xong từ một khu rừng già, hứa hẹn có nhiều điều đáng xem.

Nhưng trước khi đi, chúng tôi ghé qua Đại sứ quán Mỹ để nhận thư. Ở đó, người ta khuyên chúng tôi nên trở về càng sớm càng tốt vì một cuộc cách mạng vừa nổ ra ở Brazil. Nhưng vì không rành ngôn ngữ, chúng tôi không hề biết điều đó. Vì thế sau đó, chúng tôi tiếp tục bay trở lại Panama, nơi chúng tôi đã bỏ chiếc xe jeep lại.

Chỗ dừng chân kế tiếp của chúng tôi là Úc. Trước đó khá lâu, chúng tôi đã mua vé cho cuộc hành trình trên chuyến tàu Pacific & Orient Line (Thái Bình Dương & Đông Dương). Lúc ấy, chính phủ Úc cũng muốn tạo mọi dễ dãi cho khách du lịch, vì họ muốn chiêu dụ người di dân đến xứ họ, nên đã trả mọi chi phí cho chuyến đi, kể cả tiền chuyên chở xe cho chúng tôi. Tôi chỉ phải trả thêm có mười pounds (tiền Anh). Đó là tình trạng lúc bấy giờ, vì bao nhiêu nhân mạng đã mất đi trong thế chiến thứ II. Hiện nay thì rất khó cho người di dân đến được Úc. Châu Aâu hay Mỹ.

Tôi có thật sự muốn sống ở không? Lúc đó, tôi nghĩ tại sao không. Nơi nào lại không thể là nhà. Vậy thì không có lý do gì để không đến Úc? Thật ra, chúng tôi cũng đã dự tính mua một nông trại nào đó, ở một nơi nào đó, để có thể sống tự túc ở vùng quê.

Chuyến đi thật tuyệt vời. Tôi lên năm kí lô vì ăn quá nhiều. Trên tàu thì đủ cả: hồ bơi, phòng giải trí, phòng đọc sách, nhà hát -mọi tiện nghi mà bạn có thể nghĩ ra. Dĩ nhiênchúng tôi chỉ đặt chỗ khách du lịch bình thường, nhưng sau những tuần lễ gian khổ vừa trải qua, chúng tôicảm giác như mình đang sống một cuộc sống của tầng lớp thượng lưu. Có lúc tàu dừng lại ở Tahiti hai ngày. Thật là một chỗ tuyệt vời trên mặt đất mà tôi được đặt chân đến. Ở mỗi góc đường, đều có những người lịch sự, đẹp , đeo vòng hoa, chơi guitar. Không khí thoáng mát, sạch sẽ. Tôi nghĩ là thiên đàng cũng chỉ đến như thế này. Tôi nghĩ đến họa sĩ Gauguin, người đã tìm kiếm và gặp được thiên đàng ở đây. Dầu vậy, ông đã không tìm được hạnh phúc trong cuộc đời.

Tôi cũng mong được ở lại Tahiti, nhưng chắc không được rồi. Vì đảo Tahiti là thuộc địa của Pháp, mà người Pháp không sẵn lòng mở cửa đón khách như người Úc. 

Bến đổ kế tiếp là Auckland ở Tân Tây Lan. Vì người ta báo cho chúng tôi là tàu phải được tu sửa vài ngày, chúng tôi quyết định mướn xe đi tiếp. Như thế cũng là dịp để chúng tôi thăm viếng Tân Tây Lan. Chúng tôi đi qua đảo South Sea (Biển Nam) xanh rờn, phần lớn người dân ở đây là dân da trắng, rất hiếu khách, thẳng thắng và rất gắn bó với mảnh đất họ đang sinh sống. Người ta nói ba triệu dân ở đây được nuôi sống nhờ vào da của ba mươi triệu con cừu. 

Chúng tôi cũng viếng trại định cư Maoris của bộ lạc da đỏ ở Tân Tây Lan. Họ cũng được đối xử như những người da trắng ở đây, mà không hề bị một sự áp bức nào. Có lẽ nhờ thế mà không khí ở Tân Tây Lan đầy bình yên. Trên mỗi nhà đều được trang hoàng bằng những nét chạm trổ, và những vũ điệu dân gian tưng bừng khắp nơi.

Nhưng có lẽ nét quyến rủ nhất của Tân Tây Lan là các hồ. Nước hồ khi xanh dương, lúc xanh lục, hay đen tùy theo đặc tính của vùng đất. Có rất nhiều suối nước nóng, tỏa hơi trên mặt nước. Nổi tiếng nhất là những suối nước nóng chữa được bịnh ở Roturua, mở cửa cho mọi người. Gần như không có nơi nào ở Tân Tây Lan không có nước. Hầu như tất cả các khách sạn đều có những con suối riêng. Nước từ các con suối này đôi khi rất nóng, đến độ người ta phải làm các hàng rào để du khách không đến gần, có thể bị phỏng. Nhiều nơi nước và hơi nước phún lên cao như những ngọn núi lửa. Thời xa xưa, dân Maoris dùng các loại nước này để nấu ăn.

Đến Wellington, chúng tôi bắt kịp tàu. Lần này khi đặt chân đến Sydney, chúng tôi có đủ cả hành lý, và cả chiếc xe jeep cũng được chuyển đến. Ngay lập tức tôi đã cảm thấy an ổn ở lục địa mới này, vì chúng tôi có đủ mọi trang bị. Giờ tôi không còn phải mỗi ngày giặt áo quần để ngày hôm sau có mà mặc.

Ban đầu chúng tôi được ăn ở miễn phí trong một trại tập trung. Thật là một sự tiếp đón nồng hậu. Nhưng chúng tôi đâu có muốn ở lại Sydney, mà muốn tìm một vùng quê nào đó. Vì thế chúng tôi lại lên xe jeep, cũng là nhà của chúng tôi, để tiếp tục đi sâu vào Uùc châu. Chúng tôi lái xe dọc theo bãi biển về hướng đông với những bãi biển trắng xoá tuyết, không bóng người. Sau đó chúng tôi đi về phiá tây trong đất liền. Đây là vùng đất sa mạc. Không có bóng người, thỉnh thoảng chỉ thấy vài con thú hoang. Có lần chúng tôi đụng độ với cả một bầy ngựa hoang. Ngoài ra thỉnh thoảng cũng có vài con kangaroos và những chú két có lông màu sắc rực rỡ.

Đó là vào tháng mười một. Và tháng này ở Úc nóng như thiêu đốt. Sau ba tuần ở trong cái nóng đó, tôi hết chịu đựng nỗi. Cuối cùng, chúng tôi dừng chân tạm nghỉ vài ngày ở gần suối Alice, trong một phòng trọ có máy lạnh. Ai biết về Úc châu, cũng biết đó là một cuộc hành trình đầy gian nanCần phải có sự chuẩn bị kỹ càng, vì nước và xăng không phải dễ dàng có.

Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm một 'chỗ ở' trong xứ sở rộng lớn đó. Có nơi, một miếng đất, có thể lớn bằng cả tiểu bang Texas. Trẻ con được giáo dục qua phương tiện truyền thanh. Chúng tôi lái xe vào một trại tập trung của người dân tộc, những người dân chính gốc của Úc. Họ sống hai cuộc đời, nửa theo những phong tục cổ truyền của họ, nửa theo những quy luật của người da trắng tại đây. Nhiều người kiếm sống bằng cách bán đồ lưu niệm cho du khách: những đồ chạm trổ bằng tay, các hình tượngChúng tôi mua giúp họ, mỗi thứ giá hai 'bob', khoảng bằng hai xu Anh, dù rằng trị giá tiền tệ đó, không còn hiện hữu.

Chúng tôi lại lên xe xuyên qua xa lộ Stuart từ Darwin, thành phố tận cùng ở phía bắc, đến Adelaide. Khi trở về đến Sydney, chúng tôi đã chọn được địa điểm để định cư. Vùng đất chúng tôi thích nhất là ở miền nam của Queensland, khoảng một giờ lái xe từ bắc thủ đô Brisbane, trong vùng Nambour. Lúc đó, nơi này chỉ là một thành phố nhỏ, giờ đã phát triển thành một thành phố lớn. Đây là nơi chúng tôi muốn tìm mua một nông trại. 

Nhưng mọi việc đã xảy ra không như dự định, cũng như tất cả những biến cố xảy ra trong đời tôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8020)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35558)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11707)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23193)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13354)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5846)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10621)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10359)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10058)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20868)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6207)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6856)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8899)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6018)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18158)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6354)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6733)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6556)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5874)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7893)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10207)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7875)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9872)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9085)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5986)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24554)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36398)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7730)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11551)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10047)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5229)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5421)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10004)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7885)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9370)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8662)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46530)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6907)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12321)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5799)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14511)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12995)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12439)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14566)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12434)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10956)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9639)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16704)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8482)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5972)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9959)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6377)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11353)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7047)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46715)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13505)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8397)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6861)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9179)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17857)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18179)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15804)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6959)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31253)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9582)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7695)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21627)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34177)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33325)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14241)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35671)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13010)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15781)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13692)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33047)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26383)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41421)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40361)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20058)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33717)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29685)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33733)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18877)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22720)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22447)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49008)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11968)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11164)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22522)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18009)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15120)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22693)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16005)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13118)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19725)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12069)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant