Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 10: Con Đường Của Riêng Tôi

14 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7491)
Chương 10: Con Đường Của Riêng Tôi

QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Tự Truyện Của Một Ni Sư Phật Giáo Người Tây Phương: Ayya Khema
Dịch từ tiếng Đức: Sherab Chodzin Kohn - Dịch từ tiếng Anh: Diệu Liên-Lý Thu Linh

Chương 10
Con Đường Của Riêng Tôi

Như một hồ nước sâu
Yên tĩnh, và trong veo

Người trí cũõng thanh tịnh như thế

Khi đã được nghe Pháp.

Kinh Pháp Cú - 82

Từ đền của ngài Ramana Maharshi, chúng tôi tiếp tục lái đến thành phố Pondicherry, là một thuộc địa cũ của Pháp. Đây là nơi có ngôi đền của ngài Sri Aurobindo. Chúng tôi đã được nghe ngài Sri Aurobindo, là một nhà thông thái đã từng sống ở đó. Lúc chúng tôi đến đó, ông cũng đã tịch. Một phụ nữ Pháp đang coi sóc ngôi đền, bà là người thân của ngài Sri Aurobindo, và được mọi người gọi là "Mẹ".

Đền Sri Aurobindo rộng mênh mông, to gần bằng một thành phố. Khắp nơi đều có những ngôi nhà trong đó mọi hoạt động đều là để phổ biến giáo lý của ngài Sri Aurobindo. Chúng tôi mướn một căn phòng ở trong đền.

Người Ấn Độ coi Mẹ là một thánh nữ, điều mà ở Ấn Độ người ta rất dễ dàng được tôn xưng. Dân chúng ở đây có nhu cầu thần thánh hóa mọi chuyện. Tuy nhiên, người Mẹ này tỏ ra là một người rất đặc biệt.

Cậu bé Jeffrey và Mẹ kết thân nhau nhanh chóng. Mỗi ngày cậu bé đều tìm đến với Mẹ. Quả là một điều lạ. Mẹ sống khép kín. Ai đến cũng phải báo trước mới được vào. Vậy mà cậu bé mỗi ngày đều trèo lên nơi ở của Mẹ để chuyện trò với bà. Có lẽ bà Mẹ cũng không phiền, vì bà cũng có con. Một trong những người con của bà là một kiến trúc sư, người đã thiết kế một trong những tòa nhà ở tại đền.

Giáo lý của ngài Sri Aurobindo đối với tôi có vẻ phức tạp quá. Trong khi, những gì bà Mẹ truyền dạy cho chúng tôi rất đơn giản, thẳng vào vấn đề. Tôi cảm thấy những điều bà dạy gần gủi với mình hơn. Ngoài ra bà cũng dạy tu thiền.

Ở đây có một trường học rất đặc biệt, đến nỗi chúng tôi dự định gửi Jeffrey đến học. Ở trường đó, người ta dạy cả những vấn đề thuộc về tâm linh. Nhưng Jeffrey không muốn đi học, vì cậu bé không muốn phải xa cha mẹ.

Sân trường rộng mênh mông. Ban đêm chúng tôi thường tụ hợp ở đây dưới bầu trời đầy sao. Ban ngày, trời oi bức không chịu nỗi. Chúng tôi đang ở vào tháng tư, tháng nóng nhất ở Ấn Độ. Nhưng ban đêm thì rất dễ chịu -không khí mát mẻ, trời trong đầy sao. Mẹ hướng dẫn chúng tôi tọa thiền qua máy phóng thanh. Tôi tập làm theo, và cảm thấy ngay lập tức, cách tu này rất thích hợp cho tôi. Những lời chỉ dẫn của bà Mẹ gần giống như trong Phật giáo.

Từ lúc đó, tôi bắt đầu tọa thiềnĐến nay là ba mươi bốn năm. Ngay lập tức tôi biết đây là con đường mình đã đi tìm kiếm. Từ giờ tôi có thể áp dụng phương pháp tu thiền để soi rọi lại mình. Mẹ cũng ban cho chúng tôi những lời giáo huấn thực tế, rõ ràng, cởi mở giúp chúng tôi sống hòa hợp với nhau hơn. Sau này bà Mẹ đã thành lập ra một ngôi làng quốc tế, Aurovillie, cho mọi người trên thế giới muốn hướng đến một cuộc sống tâm linh đều có thể tụ họp lại đây. Nhớ đến Bà, lòng tôi tràn đầy sự biết ơnChúng tôi đã sống với bà được vài tháng. Đối với tôi, Bà là cánh cửa dẫn đến con đường đạo của tôi. Những lời chỉ dẫn rõ ràng, đơn giản của bà đã giúp tôi biết phải làm gì. 

Không có nghĩa là những lời của ngài Sri Aurobindo không rõ ràng. (Thực ra, ông chưa hề viết gì, những lời ông nói sau này được người ta viết lại). Nhưng ông ở một trình độ gần giác ngộ, một bước quá xa, một con số quá lớn đối với tôi. Ngược lại, bà Mẹ nói về những chuyện xảy ra cho chúng tôi hằng ngày

Sau những ngày ở lại đền Sri Aurobindo, chúng tôi lại tiếp tục lái xe vòng quanh Ấn Độ. Qua đó, có hai kỷ niệm vẫn còn ghi dấu ấn trong tâm trí tôi.

Lúc đó chúng tôi đang ở Calcutta. Chúng tôi đậu xe van trong sân của Câu Lạc bộ Xe Hơi để ngủ qua đêm. Có một người đàn ông thường ngồi bán cam ở góc đường. Tôi bảo Jeff: "Đây con lấy năm rubi ra mua một bịt cam". Cậu bé đi, và không thấy trở lại.

Càng lúc càng lâu. Cả tôi và Gerd đều chạy đi tìm cậu bé. Có lẽ Jeff đã hiểu lầm tôi mà chạy ra chợ. Trời bắt đầu tối. Lại một cơn ác mộng giống như ở Iquitos. Nhưng ở Calcutta, chúng tôi càng thêm lo, vì ở đây trẻ con thường bị bắt cóc -bị làm cho tàn tật- rồi được huấn luyện để đi ăn xin, sống trong những gia đình chuyên ăn xin. Đó là những lời đồn đại, tôi không biết có đúng không. Dầu gì, chúng tôi cũng rất đổi lo lắng.

Khi không thể tìm ra cậu bé, chúng tôi trở lại Câu Lạc Bộ Xe Hơi báo cho họ biết đứa trẻ đã bị thất lạc. Câu lạc bộ lập tức kêu gọi tất cả những người lái xe gắn máy để chạy đi tìm khắp mọi ngõ ngách. Giữa lúc họ sắp khởi hành, thì Jeff lững thững đi về với một bịch cam trong tay.

Chúng tôi tra vấn cậu bé: "Trời đất, con đi đâu vậy?" Jeff trả lời bằng cách kể cho chúng tôi nghe câu chuyện dưới đây. Sau khi mua cam xong, Jeff thấy một người đàn ông dẫn bò đi ngang qua. Oâng vắt sữa bò ngay giữa phố, rồi gõ cửa từng nhà, bán cho các bà nội trợ sữa tươi nguyên trong bình. Thế là Jeff đi theo người đàn ông để coi. Sau hồi lâu, cậu bé xin phép được giúp ông vắt sữa bò. Tốt lắm, được ngay, người đàn ông trả lời.

Thế là Jeff đi với người đàn ông và con bò từ nhà này qua nhà khác. Ban đầu nó được phép kiềm giữ con bò. Sau, nó được phép vắt sữa. Rồi được phép mang sữa đến từng nhà. Rốt cuộc đã bốn tiếng đồng hồ qua đi, mà cậu bé cũng không hay.

Qua chuyện này, tôi quyết định phải dứt bỏ lòng lo lắng cho con, lúc nào cũng nghĩ về con trong đầu tôi. Vì những việc này làm tôi không còn an tâm để vui sống với con. Người mẹ nào, dầu con còn nhỏ hay đã trưởng thành, đều hiểu điều này. Lúc nào bạn cũng sống trong sự lo lắng.

Tôi muốn dứt bỏ những phiền não này. Tọa thiền, theo tôi, là cách để thực hiện điều đó. Dầu không phải ngay lập tức, nhưng tôi hy vọng một ngày nào đó tôi có thể thực hiện được. Vì thế mong rằng người đọc không hiểu lầm rằng tôi không yêu thương con cái tôi. Tôi thương chúng hết lòng, cho đến tận ngày hôm nay. Tuy nhiên, tôi hiểu là sự bám víu, lòng sợ hãi chỉ đem lại những ảnh hưởng tiêu cực cho tình thương của tôi. Các con tôi không thuộc về sở hữu của tôi, chúng tự làm chủ mình. Tôi không phải là người canh giữ chúng, cũng như ngược lại. Chúng tôiliên hệ với nhau, chứ không phải bị cột chặt vào nhau, đó là sự khác biệt.

Những kinh nghiệm tôi thâu lượm được trong suốt cuộc hành trình dài đăng đẳng này đã trang bị cho tôi rất nhiều trong cuộc hành trình về tâm linhNếu không có chuyến đi với Gerd và Jeff, hẳn là tôi sẽ khó thể hiểu được chính mình. Có lẽ tôi sẽ mãi chui rúc trong căn nhà nhỏ bé xinh xắn của tôi ở San Diego, sẽ làm tròn bổn phận hằng ngày của tôi, và có lẽ dù ba mươi lăm tuổi hay bảy mươi, tôi cũng sẽ chẳng thay đổi nhiều. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết được những giới hạn của mình, để có thể vượt qua.

Kỷ niệm đáng nhớ thứ hai đối với Ấn Độ là ở một công viên nơi chúng tôi dừng chân nghỉ qua đêm. Lúc đó tôi đang ngồi trước xe, ngó mông lung, bỗng tôi thấy một người mặc đồ trắng, ra vẻ là một tu sĩ người Ấn Độ. Phía sau là một cái đuôi tóc đen bện vào nhau. Tôi nhìn ông, rồi bảo với Gerd: "Anh nhìn kìa. Đó là một người Tây phương!" Cách người Tây phương đi hoàn toàn khác với người Ấn Độ, và vóc dáng của họ cũng khác. Tôi bảo: "Hãy mời ông ta đến dùng trà". Gerd chạy theo người ấy và mời ông về nhà.

Đó là một tu sĩ người Úc, pháp danh là Narikutti. Oâng rất vui được mời đến xe. Chúng tôi có cái bếp nhỏ để nấu trà đãi khách. Narikutti đi quá giang xe chúng tôi một đoạn đường. Oâng giảng cho chúng tôi về thần bí học của Ấn Độ, dựa vào những hình ảnh của các vị thần được vẽ hay được tạc tượng ở những ngôi đền chúng tôi đã viếng thăm. Miền nam Ấn Độ có rất nhiều những ngôi đền hoành tráng, mà phần lớn đều có hình voi. Chúng tôi được biết tên và truyền thuyết về những vị thần như Shiva, Ganesha và Hanuman, nhưng phải thú thật là tôi không phải loại người thích thờ các thần thánh. Tôi chỉ thấy các câu chuyện thú vị, và chúng giúp cho tôi phần nào hiểu về tư duy của người Ấn Độ, chỉ thế thôi.

Narikutti cùng với chúng tôi đến Sri Lanka. Sau đó ông trở về lại Ấn Độ, và sống suốt đời trong một hang đá, trên sườn núi Arunachala, kế bên đền của ngài Ramana Maharshi. Ông đã mất lâu rồi, dù ông chỉ lớn hơn tôi đôi, ba tuổi. Sau lần gặp gỡ đó, chúng tôi vẫn liên lạc thư từ với ông. Tôi coi ông là một trong những người thầy của chúng tôi. Có ba người chúng tôi cảm thấy mang ơn rất nhiều, vì họ đã dẫn dắt chúng tôi đến con đường đạo: Ramana Maharshi, bà Mẹ và Narikutti.

Chúng tôiẤn Độ khoảng một năm. Thời gian đó, khoảng những năm sáu mươi, có rất ít người du lịch nước ngoài ở Ấn Độ, nên gặp ai chúng tôi cũng dễ dàng kết bạn. Hơn nữa, chúng tôi luôn có thể giúp đỡ họ một cách thiết thực, vì chúng tôi có rất nhiếu thuốc men.

Từ Ấn Độ, chúng tôi lấy phà qua Sri Lanka, rồi du lịch khắp nơi. Đúng là một thiên đường. Ở đâu cũng yên tĩnh, ở đâu người dân cũng tươi cười tiếp đón chúng tôi, tặng cho chúng tôi dừa, chuối; chúng tôi có thể đi tắm biển, xem đủ loại cá với những màu sắc rực rỡ. Sau này, tôi thành lập một ni viện ở Sri Lanka, nhưng đó là chuyện mãi sau này.

Từ đó, chúng tôi đi thuyền qua Thái Lan -ngẫm nghĩ lại, đúng là càng ngày tôi càng đến gần với Phật giáo hơn.

Tất cả những gì chúng tôi thấy ở Bangkok cũng như các thành phố khác ở Thái Lan, đều là những kỳ quan, đáng ngưỡng mộ. Những pho tượng Phật trang nghiêm, các đồ trang trí bằng vàng, tượng Đức Phật được khắc từ một tảng đá quý -tất cả mọi thứ đều quá sức tưởng tượng. Và biết bao nhiêu ngôi chùa lộng lẫy khiến người ta không thể không ngắm nhìnChúng tôi quen được một vài vị sư người Thái nói được tiếng Anh, để hỏi họ về Phật giáo. Những điều họ giải thích cho tôi, tựu trung lại cũng chỉ là những hình thức lễ bái, chứ không phải là những vấn đề tôi quan tâm, như là người ta phải sống như thế nào.

Từ Thái Lan, chúng tôi qua Campuchia. Ở đó chúng tôi mượn xe đạp để đi thám hiểm Angkor Wat, nơi có những ngôi chùa hoành tráng đã được người Khmer xây dựng rất lâu đời, và đã được các nhà khảo cổ tình cờ khám phá ra. Các ngôi chùa hoang vắng, gần như không có ai ngoài chúng tôi ra. Sự tĩnh lặng, thần bí của nơi này, các tượng Phật, các hình đá chạm khắc những thánh nữ nhảy múa, gây ấn tượng mạnh đối với chúng tôi.

Trước khi được khám phá, các ngôi tháp, những hình tượng đều bị rừng rậm che khuất. Các dây leo cắm sâu rể vào những vết nứt. Ở một số chỗ, các ngôi tháp vẫn được giữ nguyên trong rừng rậm. Dưới những tàn cây, những dây leo đan chằn chịt rễ, người ta tìm thấy các pho tượng cổ, và trên hết tất cả là sự tĩnh lặng mênh mông.

Ở thủ đô Pnom Penh, chúng tôi lại có thêm một kỷ niệm đáng nhớ. Ở đó có một chợ chim, chim được bán trong các lồng, mà người mua lập tức thả chúng ra để tạo thiện nghiệp. Ngay sau đó, các tay bán chim, lại bắt chúng lại, bỏ vào lồng bán tiếp. Chúng tôi thấy điều đó quá lạ lùng, đến nổi Jeff không cầm được nước mắt.

Địa danh kế tiếpViệt Nam. Mới nhìn vào, Saigon vẫn đầy quyến rũ, như không hề có dấu vết của cuộc chiến tranh đã trở nên khốc liệt ở miền Nam. Nhưng sự có mặt của nhiều phóng viên ngoại quốc ngồi quanh quẩn trong các khách sạn, lại gợi nhớ đến điều đó. Saigon đã không còn là một nơi hoàn toàn yên bình cho du khách. Do đó chúng tôi quyết định lên tàu, nhắm đến Singapore. Ở Singapore, chúng tôi bán chiếc xe van Land Rover, đáp tàu về Freemantle, Úc.

Đó là chiếc tàu của một người Hà Lan, trên đó chỉ có đủ phòng cho mười hai khách. Nhưng Jeff được phép xuống tàu, làm người khách thứ mười ba. Cậu bé được ở riêng một cabin, làm cậu rất thích. Chúng tôi được ở cabin của chủ tàu, có đủ cả phòng khách, phòng ngủ và phòng tắm. Người đầu bếp còn nấu cả các món chay cho chúng tôi -trong khi đó là một chuyến tàu buôn chở thịt đông lạnh.

Dọc đường chúng tôi ghé vào rất nhiều nơi, kể cả Indonesia và Timor. Chúng tôi được lên bờ, ngắm nhìn các bến cảng, và các khu vực quanh đó. Chúng tôi dừng chân một tuần lễ ở Darwin, hải cảng ở cực bắc của nước Uùc. Đó là một cuộc hành trình dễ chịu, khoan khoái, nhàn nhã.

Cuối cùng chúng tôi cũng đến Freemantle, hải cảng của thành phố Perth. Chúng tôi xuống tàu. Đó là vào tháng tám, là mùa đông ở Uùc. Vì không chuẩn bị, chúng tôi đành đứng trong cái lạnh cóng người. Từ Perth, chúng tôi lại đi đến Sydney, tìm lại được tất cả hành lý ký gửi trước đó, và cả chiếc xe Jeep. Sau đó chúng tôi lái xe Jeep về Queensland ở miền đông, nơi năm năm về trước chúng tôi thích nhất.

Chúng tôi mua được một nông trại ở gần Brisbane, thủ đô của Queensland. Khí hậu ở đó rất dễ chịu.

Nông trại có diện tích khoảng bảy mươi hai hecta. Quang cảnh chung quanh có núi đồi, thung lũng, cánh đồng và một khu rừng nhiệt đới nguyên thủy, trong đó đầây những hoa lan dại, các loại cây leo và cây cọ. Nông trại còn có một hồ nhỏ, chúng tôi có thể bơi lội hay ra đó hóng mát.

Trên nông trại có một ngôi nhà, với điện, điện thoại, một garage bỏ hoang và một chuồng ngựa. Khi người chủ nhà này tự nhiên bỏ đi đâu mất, mọi thứ trở thành sở hữu của ngân hàng. Chủ nhà đã khánh tận. Ngân hàng đòi ba ngàn bảng Anh. Chúng tôi trả hai ngàn, họ cũng vui vẻ nhận ngay. Tính ra chỉ có $2,700 đô Uùc cho hai trăm công đất và một ngôi nhà!

Đó là một nơi thật lý tưởngChúng tôi không phải lo lắng gì. Chủ các nông trại lân cận cũng rất tử tế, đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong những ngày đầu vì cả hai chúng tôi đều là dân thành phố, có biết gì về nông nghiệp đâu.

Phần lớn các nông trại chung quanh đều nuôi bò sữa. Chúng tôi suy nghĩ tìm cách sử dụng các cánh đồng của mình vào chuyện khác. Cách nào, cỏ cũng dùng để nuôi gia súc. Nhưng chúng tôi không muốn nuôi, để rồi phải giết chúng. Vì thế chúng tôi quyết định nuôi ngựa giống Shetland, đâu có ai giết ngựa Shetland. Chúng tôi dự định sau này sẽ bán lại cho các gia đình có con thích cưỡi ngựa.

"Tôi có một nông trại ở châu Phi". Đó là câu mở đầu trong quyển tiểu thuyết rất nổi tiếng của nhà văn Isak Dinesen. Tôi và Gerd thì có một nông trại ở Uùc. Nông trại của chúng tôi là một trong những nông trại thiên nhiên đầu tiên trong khu vực. Chúng tôi trồng các thực vật thiên nhiên, hoàn toàn không dùng thuốc trừ sâu hay bất cứ thuốc gì. Điều đó đòi hỏi bao công sức. Chúng tôi thu hoạch được rất nhiều, đủ để dùng, nên mỗi năm chỉ tốn khoảng một trăm đô la cho thực phẩmChúng tôi chỉ phải mua gạo, nho khô và đường cát vàng. Nhưng thường chúng tôi trao đổi hoa mầu thặng dư để lấy những thứ mình cần.

Dần dần nông trại thiên nhiên của chúng tôi được nhiều người biết đến, vì Gerd cũng có viết một số bài về nơi này. Nhiều thanh niên nam nữ kéo đến thăm viếng trại.

Gerd là người rất năng động (cho đến ngày nay vẫn thế). Trên mảnh đất của chúng tôi, anh đã trồng đến năm trăm loại cây trái khác nhau; ngoài ra anh còn trồng cây vân sam (để làm giấy) và cây xương rồng. Tất cả có hơn hai mươi ngàn loại cây giống, có thể mang đến nguồn lợi tức cho chúng tôi trong tương lai.

Các chú ngựa Shetland rất dễ thương. Không có gì đáng yêu hơn một chú ngựa con vừa lọt lòng mẹ, trông như một con chó xù to.

Ngoài ra chúng tôi còn nuôi ngựa để cưỡi. Jeffrey có một con ngựa cái rất ngoan, tên là Flicka, chú bé thường ngồi trên mình Flicka đi dạo quanh trại. Flicka được huấn luyện rất thuần, đến nỗi hình như bạn có thể biểu nó làm gì nó cũng làm. Nhưng có lần nó bị kinh động vì một cái lá rơi ngay trước mặt hay gì đó, mà nó bất thình lình dừng lại giữa lúc đang sãi chân, làm Jeff té xuống đất. Tôi đang đứng ở cửa số nhìn xuống. Cậu bé ngã ngữa, không ngồi dậy được. Lúc đó tôi nghĩ rằng: có lẽ nó đã chết. Ngay lúc đó tôi cảm thấy hình như tôi chấp nhận cái chết hay bất cứ điều gì xảy ra cho con tôi. Khoảng một phút sau, nó tỉnh lại, và bắt đầu la khóc; lúc đó tôi biết là nó chưa chết. Nó chỉ bị té bật ngữa, và bất tỉnh giây lát.

Đối với tôi, đó là dấu hiệu đầu tiên của việc xả ly đối với con cái. Lần đầu tiên tôi có thể coi Jeffrey và Irene (con gái tôi, vẫn đang sinh sống ở San Diego) là những người tôi thương yêu, nhưng không phải là một bộ phận không thể tách rời khỏi tôi. Nói thế, không có nghĩa đó là dấu hiệu tôi không còn thương yêu chúng, trái lại là khác. Tôi vẫn thương yêu chúng, nhưng không phải bằng tình thương sợ sệt, âu lo, mà tự trong trái tim tôi, một tình thương yêu vô điều kiện, không đòi hỏi gì ở chúng. Tình thương của tôi dành cho chúng, không chỉ lúc chúng còn sống, không chỉ vì chúng phải sống theo cách tôi muốn; chúng phải tùy thuộc vào tôi, chúng phải mang ơn tôi hay phải cư xử thế này, thế nọ. Tất cả đều không thành vấn đề nữa.

Đức Phật có một người con trai tên Rahula (La Hầu La), có nghĩa là "sự ràng buộc". Vì Đức Phật biết đứa con là một sự ràng buộc trong tâm ta, nên đã đặt tên đó cho con.

Tôi đã hai lần kinh nghiệm tương tự như thế ở Iquitos và Calcutta. Ngoài ra việc tôi để Irene lại nhà, vì cô bé không muốn cùng đi với chúng tôi, cũng không phải là một yếu tố nhỏ. Tất cả đều không phải là việc dễ xử cho tôi. Tôi luôn bị dằn vặt vì không được ở gần con gái.

Phải trải qua một thời gian dài trước khi tôi có thể nói: Chúng hiện hữu, chúng là con tôi, tôi yêu chúng vô hạn, nhưng tôi cũng phải chấp nhận cái chết của chúng. Không có thái độ buông xả này, ta khó thể có tình yêu thương thanh thảnTình thương của ta sẽ đầy lo âu, sợ hãi mất mát. Không dễ gì đoạn diệt được lòng sợ hãi, nhưng vào cái ngày khi Jeff bị té ngựa, tôi đã làm được điều đó

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1109)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan.
(Xem: 1388)
Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ (1945-2023)
(Xem: 1991)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 5780)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Hiền Như Tịnh Thất Trụ Trì, Pháp danh Tâm Hỷ, tự Thanh Diệu Pháp Ni Sư Chơn linh.
(Xem: 3602)
Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn vừa viên tịch tại Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
(Xem: 4833)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4606)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan - Chánh văn phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 6703)
Được tổ chức tại Chùa Phật Đà, San Diego, California, vào lúc 10:00am ngày 27/9/2020.
(Xem: 18248)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Húy Thượng Tâm Hạ Nhẫn, Tự Hành Từ, Hiệu Chí Tín Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng Liên đài chứng giám
(Xem: 3879)
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khai thuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
(Xem: 2962)
Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó
(Xem: 5596)
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền Viện Vạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 9096)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 2608)
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
(Xem: 6830)
Đại Lão HT Thích Quảng Độ viên tịch lúc 21 giờ 30 ngày 22 tháng 2 năm 2020, thượng thọ 93 tuổi, 73 hạ lạp
(Xem: 3237)
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
(Xem: 5908)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 3984)
Nhận thấy nhu cầu tìm hiểu những nhân vật, con người, đã và đang đóng góp công sức cho Phật giáo Việt Nam ngày nay...
(Xem: 5406)
Ôn thường canh cánh về Mẹ bên lòng khi còn sanh tiền. Trước khi “chết” Ôn về quê thăm Mẹ, lạy tình thương của Mẹ từ thuở ấu thơ.
(Xem: 18399)
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
(Xem: 6334)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) vừa viên tịch
(Xem: 5820)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Thành sinh ngày mùng 9 tháng 8 năm 1934, tại Xã Xuân Thọ, Quận Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, Việt Nam.
(Xem: 3520)
Bài Thuyết Trình: Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
(Xem: 2495)
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
(Xem: 13498)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 5375)
Chương trình tang lễ của HT Thích Quảng Thanh được tổ chức tại Chùa Bảo Quang từ ngày 14 đến 17/6/2019
(Xem: 2723)
Hòa Thượng Thích Thiện Định là vị Tổ khai sơn chùa Pháp Hoa tại Marseille, Pháp Quốc.
(Xem: 3989)
Ngài thế danh là Diệp Quang Tiền, Pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác (Đồng sư với Hòa thượng Thiện Châu ở bên Pháp), hiệu Trí Ấn Nhật Liên
(Xem: 4548)
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
(Xem: 3930)
Tây Tạng xưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giả siêu việt, mà ngài Lạt Ma tái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnh tiêu biểu.
(Xem: 2630)
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiện nhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
(Xem: 4368)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn
(Xem: 3333)
Sư cô Thích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
(Xem: 4698)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
(Xem: 7553)
Chương trình tang lễ được tổ chức từ ngày 23 đến 25 tháng 10 năm 2018 tại Chùa Diệu Quang, 3602 W 5th St, Santa Ana, CA 92703. Tel: (714)554-9588
(Xem: 3443)
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
(Xem: 3744)
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
(Xem: 3445)
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
(Xem: 7609)
Thay mặt chư tôn đức Tăng, Ni và quý Cư Sĩ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Sư Bà Tân Viên Tịch Cao Đăng Phật Quốc.
(Xem: 12548)
Lễ Nhập Quan: Vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 12 tháng 1 năm 2018 tại Peek Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683
(Xem: 16190)
Đức Trưởng lão Hòa Thượng thượng ĐỨC hạ CHƠN Viện chủ Tu Viện Quảng hương Già Lam, Sài Gòn vừa viên tịch lúc 03g40′ ngày 27/11/2017
(Xem: 4548)
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng
(Xem: 52626)
HT Thích Đức Niệm - Trụ trì Chùa Ưu Đàm, Tp. Marina, California viên tịch lúc 11:30AM ngày 20/10/2017...
(Xem: 8653)
Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông
(Xem: 16054)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tuyền (1938-2017) Khai Sơn Chùa Phật Giáo Việt Nam tại Nhật Bản
(Xem: 4062)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được tồn vinh đó là nhờ công đức sáng lập của Thầy.
(Xem: 3799)
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
(Xem: 8668)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ... TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 4015)
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.
(Xem: 12674)
Sư Bà đã viên tịch ngày 15/1/2017. Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 9am, Chủ Nhật, 22/01/2017; Lễ Trà Tỳ vào lúc 3pm, Thứ Hai, 23/01/2017
(Xem: 12433)
Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng.
(Xem: 17177)
Chúng con/tôi vừa nhận được tin: Thượng Tọa THÍCH ĐỨC TRÍ Trụ trì Chùa Tam Bảo Tulsa, Oklahoma vừa viên tịch...
(Xem: 7180)
Vào tháng 4 năm 1998, tôi trở về nhà ở Dharamsala, Ấn Độ, sau hành trình giảng dạy dài và khoản thời gian miệt mài viết lách tại Mông Cổ và phương Tây.
(Xem: 5875)
Đại lão HT Thích Thiện Bình đã thu thần viên tịch 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
(Xem: 7237)
Xuất gia năm 1960, thọ Sadi giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại Tổ đình Tường Vân, thọ cụ túc giới năm 1964 tại giới đàn Quảng Đức
(Xem: 8376)
Đức Vua Bhumibol Adulyadej, vị hoàng đế ở trên ngai vàng lâu nhất thế giới, vừa băng hà tại bệnh viện ở thủ đô Bangkok ngày 13-10-2016.
(Xem: 5326)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe...
(Xem: 6688)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật.
(Xem: 8708)
Trong cuộc phỏng vấn năm 1999, Richard Gere nói về những năm tháng tu tập của mình, sự cống hiến của anh cho Lão sư của mình là Ngài Đạt La Lạt Ma.
(Xem: 5408)
Chu Văn An (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật của Chu Văn An vốn là...
(Xem: 6447)
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng...
(Xem: 4705)
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 14100)
Lễ nhập Kim Quan lúc: 04 giờ chiều ngày Thứ Bảy: 25/6/2016; Lễ cung tống Kim Quan trà tỳ lúc: 08 giờ sáng ngày Thứ Năm: 30/06/2016
(Xem: 5613)
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt, toàn thân Ngài bất động điềm nhiên trong tư thế thiền định...
(Xem: 5746)
Bài thuyết trình cho Khóa An Cư Kiết Hạ tại Niệm Phật Đường Fremont, SanJose, từ ngày 13-23 tháng 6 năm 2016
(Xem: 9906)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
(Xem: 8743)
Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ Chứng minh Đạo sư GHPGVNTN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
(Xem: 7179)
Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng...
(Xem: 35095)
Lễ nhập kim quan lúc: 09:00am, ngày 12/3/2016. Lễ di quan lúc 10:00am ngày 15/3/2016
(Xem: 5523)
Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo HộiTrưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ.
(Xem: 10633)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Thích Hạnh Tuấn (1956-2015) Chùa Trúc Lâm Chicago, USA ấn hành 2015
(Xem: 13090)
Kể từ khi tổ Minh Hải–Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời truyền thừa...
(Xem: 7638)
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo.
(Xem: 17767)
HT Thích Tâm Thọ, Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên thế giới, Viện Chủ Chùa Giác Hoàng, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ
(Xem: 6607)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
(Xem: 19886)
HT Thích Hạnh Tuấn, Trú Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, đã viên tịch; Lễ Nhập Liệm vào ngày thứ 4, 4/11/2015; Lễ Trà Tỳ vào ngày Chủ Nhật, 8/11/2015
(Xem: 13395)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16183)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 26956)
Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi)
(Xem: 28784)
Trưởng lão Hòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
(Xem: 10833)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
(Xem: 7612)
Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa.
(Xem: 7062)
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa
(Xem: 10173)
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
(Xem: 10196)
Tranh vẽ Chân Dung HT Tuệ Sỹ của nhiều tác giả
(Xem: 8066)
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phậtcống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn Giả Phú Lâu Na.
(Xem: 8092)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
(Xem: 6867)
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
(Xem: 10020)
Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, viên tịch năm kỷ Mùi.
(Xem: 20778)
Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.
(Xem: 24140)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15232)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 8196)
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chí vững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
(Xem: 18697)
Vào lúc 15 giờ ngày 14/12/2014, tại An Tường tự viện, Oakland, California, Hoa Kỳ, các tự viện đã phối hợp cùng Môn đồ pháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang HT húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủ An Tường tự viện
(Xem: 16594)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 10884)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á.
(Xem: 7322)
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 7907)
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 14205)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant