Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Anagarika Dharmapala - A Dục Vương của Tích Lan

13 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10120)
Anagarika Dharmapala - A Dục Vương của Tích Lan

ANAGARIKA DHARMAPALA
A DỤC VƯƠNG CỦA TÍCH LAN

Hoà Thượng THÍCH TRÍ CHƠN

 

Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại. Chẳng khác gì A Dục Vương, đời sống của Đại Đức cũng được hướng dẫn bởi tinh thần nhân đạo. Vào thế kỷ thứ 03 trước tây lịch vua A Dục đã bành trướng Phật Giáo khắp Ấn Ðộ, Tích Lanthế giới do những đoàn truyền giáo của ngài. Trong thời đại chúng ta, Ðại Đức Dharmapala cũng làm một công việc vĩ đại lợi ích cho nhân loạiphục hưng Phật Giáovăn hóa đạo Phật ở Ấn Ðộ, Tích Lan, nhiều quốc gia Á Châu Phật Giáo suy tàn, cùng các nước Tây Phương thịnh hành Thiên chúa.

Sự thịnh suy của những nền văn minh là một điều tất nhiên trong lịch sử. Cho nên thời gian từ thế kỷ thứ 03 trước tây lịch đến thế kỷ thứ 12 sau tây lịch, có thể xem nhưthời kỳ cực thịnh vàng son của nền Phật Giáo Ấn Ðộ, Tích Lan. Nhưng từ thế kỷ 12 sau Thiên Chúa, những nền văn minh này bắt đầu suy tàn. Và đến thế kỷ thứ 16, khi người Bồ Ðào Nha, Ðức và Anh xâm lăng Châu Á thì những nền văn minh trên gần như rơi vào tình trạng suy sụp hẳn. Sự thống trị này của ngoại bang đã phá hủy nền văn hóa cổ truyền của xứ sở và những đoàn truyền giáo Thiên Chúa đã được dịp phát triển mau lẹ tại các quốc gia trên ở Châu Á. Nhiều trường học Thiên Chúa đã được thành lập bởi các giáo hội Thiên Chúa. Số đông trẻ em Phật tử bắt buộc phải đến học tại những trường này và các Phật tử không tránh khỏi bị cưỡng bức đi lễ nhà thờ.

Thêm vào đó người ta còn dùng áp lực kinh tế để khuyến dụ các Phật tử vào đạo. Thật là một thời kỳ tủi nhục, giai đoạn mà người con Phật cảm thấy sợ sệt mỗi khi tự nhận mình là Phật tử và nền văn hóa Phật Giáo bị suy đồi thảm hại. Chính giữa lúc Tích Lan gặp cơn quốc biến này, một hài nhi thuộc gia đình phú quí Sinhalese đã ra đời tại Colombo (Tích Lan) để sau trở thành vĩ nhân, hướng dẫn dân tộc ông phục hưng lại nền văn hóađạo lý cổ truyền cao quý của quốc gia. Hài nhi đó tên là David Hewavitharne và sau mang pháp danh là Anagarika Dharmapala, sinh ngày 17-09-1864 và mất ngày 27-09-1934.

David Hewavitharne được giáo dưỡng trong văn hóa Sinhalese, xây dựng trên nền tảng nhân sinh Phật Giáo. Lòng thành kính chánh pháp của cha mẹ ông đã rèn luyện cho ông có được cái đạo hiếu cổ truyền, vốn là di sản của dân tộc ông từ hơn 2500 năm về trước. Noi gương hai thân sinh, hằng ngày ông sống quy y theo Phật, Pháp, Tăng và giữ gìn năm cấm giới theo tập tục của hàng dân chúng. Số kiếp ông sinh ra như để trở thành một nhân vật cao cả và một đệ tử nhiệt thành của đức Phật. Thay vì chạy theo những cám dỗ của xã hội tân tiến bấy giờ, ông đã sống một cuộc đời trong sạchbình dị, tránh xa những ý tưởng tội lỗibất thiện.

Theo tục lệ Phật Giáo, bài vỡ lòng tiếng Sinhalese đầu tiên của đứa trẻ phải do một nhà sư chỉ dạy. Do đó không ai ngạc nhiên thấy rằng Dharmapala đã thụ giáo bài học khai tâm với Đại Đức học giả Siri Sumangala, giáo sư đại học đường Vidyodaya Pirivena, tức trường đại học Vidyodaya của Tích Lan bây giờ. Sau khi theo học một vài trường Thiên Chúa giáo, Dharmapala vào dự học ở trường Anh Quốc giáo phái tại Kotte cách Colombo sáu dặm. Tại đây, Dharmapala bị bắt buộc đi lễ nhà thờ vào lúc 7 giờ 30 mỗi sáng và để nghe giảng kinh Thánh (Bible) hằng ngày.

Về sau, Dharmapala xin vào học tại trường đại học Thánh Thomas gần Colombo. Ðây là một trường giáo dục cao cấp của Thiên Chúa, có một kỷ luật rất nghiêm khắc. Và trong thời gian này, điều đã khiến cho Dharmapala giữ được tín ngưỡng Phật Thích Ca là chính bởi những đức tính khoan dungkính trọng các tôn giáo khác của Phật Giáo cũng như do ở sự hấp thụ sâu xa giáo lý đức Phật nơi hai thân sinh ông ta. Ngày nay nhờ ảnh hưởng công trình rộng lớn của đại tá Phật tử Olcolt (Hoa kỳ) và Đại Đức Dharmapala mà tất cả những con em Phật tử đều được hấp thụ nền học vấn Sinhalese và Phật Giáo tại bất cứ trường nào chúng theo học.

Tháng 05 năm 1886, Ðại tá Olcolt và bà Blavatsky (người Nga) đến Colombo là một biến cố trọng đại trong phong trào phục hưng Phật Giáo tại Tích Lan. Cả hai là những nhà sáng lập Hội Thông Thiên Học tại thành phố Nữu Ước (Mỹ quốc). Trước kia họ từng liên lạc mật thiết với Đại Đức Migettuwatte Gunananda, một danh Tăng diễn thuyết tài ba và đã nhiều lần đánh bại những giáo sĩ Thiên chúa trong các cuộc tranh luận tôn giáo được tổ chức công cộng tại Panadura vài năm 1873. Giáo lý cao siêu của đức Phật đã vượt thắng mọi giáo điều của Thiên Chúa. Và chính những cuộc tranh luận này đã ảnh hưởng đến quyết định sang Tích Lan tìm hiểu Phật Giáo của hai nhà sáng lập Hội Thông Thiên Học nói trên.

Có thể nói rằng, hành động đến Galle, miền Nam Tích Lan ngày 21-05-1880 của đại tá Henry S. Olcolt và bà Blavatsky để làm lễ quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới với một đại sư Tích Lan đã ảnh hưởng sâu xa đến tâm hồn chàng thanh niên Dharmapala. Và chính Dharmapala cùng với hai thân sinh của người cũng có tham dự trong buổi lễ nầy. Ðây là biến cố trọng đại, lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Tích Lan đã có hai người Tây phương đến xứ này để công khai thọ lãnh Phật pháp. Hành động quy y Phật của bà Blavatsky và đại tá Olcolt đã mở đầu một kỷ nguyên mới cho lịch sử Phật Giáo Tích Lan.

Năm 1883 một đám đông tín đồ Thiên Chúa đã đánh phá một đám rước Phật Giáo ngay tại trước nhà thờ Thiên Chúa ở Kotahena, phía bắc Colombo. Việc này khiến cho thân sinh của Dharmapala vô cùng căm tức và từ đó ông nhất quyết không cho con ông đến học các trường Thiên Chúa nữa. Dharmapala bị bắt buộc phải rời Ðại Học Ðường Thánh Thomas và mấy tháng đầu ông được gởi đến thư viện quốc gia Colombo để nghiên cứu về các môn cổ học Châu Âu. Năm 1884, Dharmapala được 18 tuổi, đã cùng hai nhà sư khác tham gia hoạt động cho Hội Thông Thiên Học tại Tích Lan. Dharmapala cũng với đã trải qua một thời gian nghiên cứu với bà Blavatsky tại trụ sở Hội Thông Thiên Học ở Ấn Độ.

Mặc dù chẳng ham thích nghiên cứu về các hiện tượng huyền bí, nhưng bà Blavatsky vẫn khuyến khích anh ta học hỏi thêm tiếng Pali và kinh điển Phật Giáo. Khi trở về Tích Lan, bấy giờ Dharmapala đúng 20 tuổi. Ông xin phép thân phụ cho ông sống độc thân để bắt đầu hoạt động phụng sự cho Phật Giáo. Nhưng thân sinh ông do dự trước trước lời thỉnh nguyện này. Sau đó, Dharmapala vào làm việc ở Hội Thông Thiên Học tại Tích Lan, sống cuộc đời như một nhân viên thư ký của chính phủ.

Năm 1886, đại tá Phật tử Olcolt và Đại Đức C.M.Leadbeater từ Adyar (Ấn Ðộ) trở sang Colombo để quyên tiền giúp cho tổ chức giáo dục Phật tử Tích Lan. Họ định đi khắp Tích Lan và cần một thông dịch viên vì bấy giờ họ không nói được tiếng Sinhalese. Dharmapala lúc đó đang làm thư ký ở Bộ Quốc Gia Giáo Dục Tích Lan, liền xin thôi việc và lập tức nhận lời giúp họ trong công tác này. Thân sinh Dharmapala nghe tin liền hoảng hốt nhưng bà thân ông lại bằng lòng. Sau ba tháng đi khắp các xóm làng Tích Lan bằng xe bò (bullock cart), đến năm 1887 phái đoàn họ trở thành những hình ảnh quen thuộc trong phòng trào phục hưng Phật Giáo xứ ở Tích Lan. Chàng thanh niên Dharmapala đã nói trôi chảy như đại tá Phật tử Olcolt về mọi vấn đề xã hội, kinh tế và tôn giáo.

Từ năm 1885 đến 1889, Dharmapala đã dành hết cả thì giờ hoạt động cho phong trào chấn hưng đạo pháp để rồi ông nghiễm nhiên chẳng khác gì A Dục Vương thời xưa của Ấn Ðộ, trở thành nhà truyền bá Phật Giáo vĩ đại nhất của thời đại chúng ta. Trong thời gian này, Dharmapala cùng với đại tá Phật tử Olcolt thành lập tờ tuần san “San-darasa” bằng tiếng Sinhalese và tháng 12 năm 1888 lại cho ấn hành số đầu tiên tạp chí “Phật tử” (The Buddhist) bằng Anh văn do Đại Đức Leadbeater làm chủ nhiệm. Tạp chí này sau trở thành cơ quan ngôn luận của Hội Thanh Niên Phật Tử Colombo (Colombo Young Men’s Buddhist Association) và đến nay đã có một lịch sử lâu dài 75 năm phụng sự đạo pháp.

Năm 1889, đại tá Olcolt cùng với Đại Đức Dharmapala sang Nhật Bản. Họ mang theo bức thư tỏ bày thiện cảm của Phật tử Tích Lan gởi đến toàn dân chúng Phật tử Nhật viết bằng Phạn văn (Sanskrit). Nhật Bản là một trong vài ba quốc gia được độc lập ở Châu Á và họ đã đóng góp một vai trò quan trọng trong sự phục hưng Phật Giáo tại những nước Á Châu. Tháng giêng năm 1891, Đại Đức Dharmapala cùng với một vị Tăng Nhật Bản, Đại Đức Kozen Gunaratne sang thăm các nơi thánh tích Phật Giáo tại Ấn Ðộ.

Đại Đức Dharmapala thấy cảnh Bồ Ðề Ðạo Tràng (Buddha Gaya), nơi đức Phật thành đạo tiêu điều hoang phế và Chùa Bồ Ðề Ðạo Tràng bấy giờ thuộc quyền quản trị của một tên xấu xa trục lợi là Mahant. Ðại đức đã nhiều năm đứng ra nỗ lực tranh đấu để giành lại thánh tích này nhưng thất bại. Tuy nhiên về sau chính phủ Ấn Đọ giao Bồ Đề Ðạo Tràng cho một ban quản trị hỗn hợp gồm các tín đồ Ấn Giáo lẫn Phật Giáo chăm sóc, đã gây nhiều thiện cảm đối với Phật tử Á Châu.

Sự thay đổi này là hoàn toàn do công trình tranh đấu cương quyết của Đại Đức Dharmapala cùng với sự đồng tình lên tiếng ủng hộ của hang triệu Phật tử khắp nơi trên thế giới Hội Ma Ha Bồ Đề (Maha Boddhi) do Đại Đức Dharmapala thành lập tại Bồ Ðề Ðạo Tràng năm 1881 và được dời về Calcutta năm 1882. Hiện nay Hội này vẫn còn là một cơ quan Phật Giáo hoạt động mạnh nhất tại Ấn. Trụ sở của hội đặt tại số 4A đường Chatterjee, Calcutta 12 India (Ấn Ðộ). Tại đó hiện còn di tích một đài kỷ niệm tráng lệ để ghi nhớ công đức không riêng mình Đại Đức mà cả bà Foster ở Hạ Uy Di (Hawaii) cũng là ân nhân của hội. Tại Calcutta, Đại Đức đã chủ trương ấn hành tạp chí Đại Giác (Maha Bodhi). Tờ báo này đã tiếp tục xuất bản suốt 71 năm qua và hiện nay nó là một trong những nguyệt san Phật Giáo đã góp phần đắc lực trong việc truyền bá chánh pháp của đức Phật.

Năm 1893, nhân dịp triển lãm quốc tế ở Columbia một cuộc hội thảo các tôn giáo thế giới đã được tổ chức tại phòng khánh tiết Columbus ở thành phố Chicago (Mỹ quốc) và đây là một biến cố trọng đại nhất vào cuối thể kỷ 19. Tại diễn đàn công cộng, cùng với những lãnh tụ các tôn giáo lớn khác, Đại Đức Dharmapala đã diễn thuyết ba lần trước số đông thính giả trí thức về tôn giáo cao siêu của đức Phật. Mặc dù Đại Đức không có tài hùng biện hấp dẫn như Vivekananda, thuyết trình viên về Ấn Ðộ giáo, nhưng bằng một lời nói giản dị và cứng rắn, những bài thuyết pháp của Đại Đức đã khiến cho đa số dân chúng Mỹ quốc bấy giờ chú ý và ham thích.

Đại Đức Dharmapala cũng đã sang thăm Anh quốc nhiều lần. Trong chuyến đi đầu tiên vào năm 1893, Đại Đức đã cố gắng mong thành lập tại Luân Ðôn một chi nhánh của Hội Ma Ha Bồ Đề, nhưng công việc không thành. Lần đầu tiên trong lịch sử Ấn Ðộ, Đại Đức cũng là người đã đứng ra tổ chức lễ Phật Đản vào ngày 26-05-1896 tại Calcutta Ấn Độ. Buổi lễ này được đặt dưới quyền chủ tọa của ông Narenda Nath Sen. Đại Đức cũng cơ duyên may mắn đứng ra tổ chức đại lễ Phật Đản đầu tiên tại Nữu Ước (Hoa Kỳ) vào năm 1897, nhân chuyến sang thăm Mỹ quốc lần thứ hai do lời mời của bác sĩ Paul Carus.

Thân sinh của Đại Đức, người đã cúng rất nhiều tài chánh vào việc bành trướng giáo lý đức Phật, mất năm 1891. Nghe tin này, bà Foster ở Hạ Uy Di, người đã ủng hộ tích cực phong trào chấn hưng Phật Giáo, đã viết thư thỉnh cầu Dharmapala nhận bà làm mẹ nuôi. Bà đã gởi cúng cho Đại Đức một số tiền lớn, mà nếu không có số tiền này thì chắc Đại Đức khó lòng theo đuổi chí nguyện hoằng pháp tại Ấn Ðộ cũng như Tích Lan.

Năm 1913, Đại Đức Dharmapala rời Tích Lan đi Honolulu (Hạ Uy Di) để cảm ơn bà Foster đã nhiệt thành giúp đỡ cho hội Ma Ha Bồ Đề chính nhờ số tiền hỷ cúng của bà này mà hội đã mua được một tòa lầu tại Calcutta để làm trụ sở. Trước khi Đại Đức rời Hạ Uy Di, bà Foster đã cúng cho Đại Đức một số tiền 60.000 Rupees. Đại Đức đã dùng số bạc này để xây cất một nhà thương danh tiếng tại Colombo (Tích Lan) và đặt tên là bệnh viện Foster Robinson để ghi nhớ công đức vô lượng của bà ta. Bà Foster còn giúp trong việc xây cất chùa Siri Dharmarajika Chaitiya ở Calcutta.

Năm 1920, Lord Ronaldshay, toàn quyền Anh tại Ấn Ðộ cũng có cúng cho chùa 1 viên xá lợi của Phật để thờ. Xá lợi này tìm thấy ở quận Madras (Ấn Ðộ) và Phật sự sau cùng mà Đại Đức đã hoàn thànhtrùng tu Chùa Muladhakuti ở Sarnath, nơi đức Phật thuyết pháp đầu tiên và an vị thờ tại đó một xá lợi của Phật do vị thống đốc Anh ở Bengal cúng. Và cũng như sự nghiệp đóng góp của vua A Dục vào thế kỷ thứ 03 trước tây lịch, Đại Đức đã xây dựng tháp Sanchi ở Bhopal, miền tây bắc Ấn, để thờ xá lợi của hai vị đại đệ tử của đức Phật là ngài Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên.

Từ năm 1917, Devapriya Valisinha trở thành vị đệ tử nòng cốt của Đại Đức Dharmapala. Từ khi Đại Đức từ trần đến nay, ông đã giữ nhiều trọng trách trong mọi ngành hoạt động của hội Ma Ha Bồ Đề tại Calcutta. Phải kể thêm một vị đệ tử khác của Đại Đứctỳ kheo Sangaratane, người từng phục vụ đắc lực cho Hội trên và đã nhận chức trú trì chùa Sarnath từ tháng 12 năm 1930. Tháng giêng năm 1933, mặc dù kém sức khỏe Đại Đức đã thọ giới với pháp hiệu là Siri Devamitta Dharmapala. Sau khi Đại Đức viên tịch vào năm 1934, công nghiệp của ngài đã được tiếp tục bởi đạo hữu Valisinha, tỳ kheo Sangaratane cùng với số đông Phật tử trí thức ở Bengal như bác sĩ Nag N. Dutt. Và gần đây, phong trào dân chúng cải giáo quy y theo Phật của cố tiến sĩ Ambedkar, nhà lãnh đạo những giai cấp hạ tiện tại Ấn Ðộ với hàng triệu tín hữu của ông ta cũng nhờ bởi công trình đóng góp vô vị lợi cho nhân loại của cố Đại Đức Dharmapala trước kia vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17654)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24488)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26002)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13771)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13175)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22045)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19070)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10002)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11908)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13041)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15182)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10537)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21820)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 9844)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9747)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10191)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27393)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17832)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13189)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25145)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34649)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26755)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19062)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13084)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9133)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11794)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18518)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8776)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10664)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10954)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27998)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17876)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14409)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16364)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13201)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15524)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14693)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7596)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17040)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8386)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30716)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant