Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Mối tình huynh đệ ngàn năm còn thắm thiết

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4508)
5. Mối tình huynh đệ ngàn năm còn thắm thiết

ÐƯỜNG TAM TẠNG THỈNH KINH

Võ Ðình Cường
(In lần thứ ba, năm 2000 TP. Hồ Chí Minh)

MỐI TÌNH HUYNH ÐỆ NGÀN NĂM CÒN THẮM THIẾT

Ngài Huyền Trang ở nước Y Ngô được hơn mười ngày, một hôm, được tin sứ thần vua nước Cao Xương đến yêu cầu quốc vương Y Ngô mời Ngài sang nước ấy.

Nước Cao Xương, tức là thành Nhã Nhi, phụ cận Tây Nhã Hồ, thuộc xứ Tân Cương ngày nay. Cao Xương dựng nước vào khoảng giữa đời Nguyên Ngụy, tuy ở xa về phía Tây, nhưng cũng là giòng Hán, và theo Phật giáo. Vua nước ấy là Khúc Văn Thái, một tín đồ nhiệt thành của đạo Phật.

Ngài Huyền Trang, trước kia định từ nước Y Ngô theo rừng phía bắc Thiên Sơn đến thẳng Aán Ðộ. Nhưng nay có lời khẩn khoản mời của vua nước Cao Xương nên buộc lòng phải rẽ sang nước ấy. Ngài theo sứ thần đi về hướng Tây Nam, lặn lội sáu ngày trong vùng sỏi đá, đến tối ngày thứ sáu mới đến địa giới Cao Xương, vào thành Bạch Lực (nay là đất thành Hòa Thiên). Vua cùng các quan thị vệ đèn đuốc trước sau, tự ra khỏi cung, long trọng đón rước Ngài vào hậu cung, mời Ngài ngồi trong bảo trướng tầng lầu trong. Quốc vương nói:

–Sư phụ một mình một bóng, lặn lội qua sa mạc, là sự rất lạ lùng. Ðệ tử, xưa có cùng đấng tiên Vương sang chơi bên Ðại Quốc, theo vua Tùy đi du lịch đông tây hai kinh, và các nơi đất Yên, Ðại, Phần, Tấn, có gặp nhiều vị danh tăng, mà đệ tử không hâm mộ vị nào cả. Chỉ từ khi nghe đại danh Pháp sư, vui mừng quên cả ăn ngủ. Ðệ tử tính hành trình biết rằng hôm nay Pháp sư có thể đến được, cho nên cả vợ con chưa dám đi ngủ, chỉ ngồi xem sách để đợi Pháp sư đến nghe kinh.

Một lúc sau, Vương phicung nữ trên mấy chục người đến bái chào. Khúc Văn Thái ngồi chuyện vãn với Ngài cho đến gần sáng. Ngài mệt nhừ, gần sáng mới đi nằm được một lát. Sáng hôm sau, trong lúc Ngài Huyền Trang đang nằm trên giường chưa dậy được, Khúc Văn Thái đã đến tận bảo trướng hỏi thăm sức khỏe và nói:

–Ðệ tử kính mếân sư phụ, giận không được trọn đời cung phụng, mong rằng sư phụ đừng nghĩ gì đến việc Tây du nữa, hoan hỉ ở lại đây để cho dân nước đệ tử đều được chịu sự giáo hóa của sư phụ.

–Tâu Ðại vương, bần tăng ra đi chuyến này không phải để nhận lãnh phú quý vinh hoa. Bần tăng đã bao năm khổ tâm, vì tại nước nhà, lý nghĩa Phật pháp đang còn hoang mang, kinh điển còn nhiều thiếu sót, nên mới phát nguyện Tây du để nghiên tầm kinh điển, không quản ngại đường sá gian lao có thể tổn hại đến tánh mạng. Bần tăng mong rằng rồi đây mưa pháp sẽ nhuần thấm không phải chỉ ở Ấn Ðộ, mà cả toàn cõi Trung Quốc bao la. Vì thế, xin Ðại vương đừng bắt bần tăng phải bỏ dở cuộc hành trình. Bần tăng rất lấy làm cảm kích về sự tiếp đãi ân cần của Ðại vương, nhưng không thể nghĩ chuyện ở lại đây được. Xin Ðại vương hiểu thấu cho.

Nhưng vua Cao Xương vẫn không từ bỏ ý định, nói một cách cương quyết:

–Ðệ tử một lòng quy kỉnh sư phụ, tha thiết mong mỏi sư phụ ở lại đây để đệ tử được may mắn sớm hôm hầu hạ. Lòng đệ tử đã quyết thì mặc dù núi Tu Didời đổi, ý nguyện của đệ tử cũng không đổi thay.

Huyền Trang vẫn một mức chối từ. Vua Cao Xương bây giờ đổi sắc mặt, đứng dậy vung tay áo nói to:

–Ðệ tử đã hết lời cầu khẩnPháp sư vẫn không nghe. Vậy đệ tử có cách khác đối xử với Pháp sư. Pháp sư không thể đi được. Hoặc Pháp sư lưu lại đây, hoặc đệ tử đưa Pháp sư trở về nước, xin Pháp sư hãy lựa một trong hai điều.

Nói xong, Khúc Văn Thái bỏ đi ra. Huyền Trang thở dài, nức nở không thể nói ra lời.

Từ đó, Khúc Văn Thái lại tăng thêm đồ cúng dường, săn sóc Ngài rất chu tất, cung cấp từ ăn uống, áo quần, đồ dùng không thiếu một thứ gì. Mỗi ngày, đến bữa ăn, Khúc Văn Thái tự mình bưng mâm dâng lên, chấp tay đứng hầu bên cạnh.

Huyền Trang không thể không cảm kích trước lòng chân thành của Khúc Văn Thái, nhưng nhận thấy nếu cứ như thế này mãi thì khó bề đi đến Ấn Ðộ được. Một hôm Ngài nói với Khúc Văn Thái:

–Bần tăng lặn lội xa xôi, cốt là cầu lấy kinh Phật, hiện giờ bị Ðại vương ngăn giữ. Ðại vương chỉ giữ được hài cốt của bần tăng thôi, chứ tinh thần, ý chí của bần tăng thì Ðại vương không giữ được.

Từ đấy, Ngài thề nhịn đói, không ăn uống nữa để cảm động lòng vua. Ngài xếp bằng ngồi yên, ba ngày không có một hột cơm, một giọt nước vào miệng. Hơi thở Ngài yếu dần, thân hình Ngài không còn ngồi thẳng được, xem chừng nguy kịch. Ðến ngày thứ tư, Khúc Văn Thái sinh lòng lo lắnghối hận, cúi đầu lạy và nói rằng:

–Thôi đệ tử xin tạ tội với Pháp sư. Ðệ tử không dám cầm giữ nữa. Pháp sư muốn sang Tây Trúc thì cứ sang, những xin hãy xơi cơm cho. Ðệ tử chỉ xin phép Pháp sư hai điều: Một là giảng cho một tháng kinh Nhân Vương Bát Nhã, hai là xin được cùng Pháp sư kết nghĩa anh em.

Ngài Huyền Trang sợ Khúc Văn Thái không giữ lời, mới yêu cầu vua thề trước bàn Phật. Khúc Văn Thái ngoan ngoãn làm theo. Và Ngài Huyền Trang lại ăn uống như cũ.

Theo lời yêu cầu của vua, Ngài ở thêm một tháng để giảng kinh Nhân Vương Bát Nhã. Khúc Văn Thái truyền dựng một cái lều bằng vải có thể chứa được 300 thính giả. Bà Hoàng thái hậu, vua, các trưởng lão Hòa thượng, đình thần đều đến nghe giảng một cách kính cẩn. Mỗi ngày, đến giờ giảng, vua thân hành bưng một lư hương đến thỉnh Ngài và rước Ngài đến diễn đàn. Ðến đấy, vua quỳ xuống và đỡ chân Ngài lên ngồi vào pháp tọa.

Trước khi Ngài lên đường, Khúc Văn Thái sắm sửa các thứ cần dùng cho Ngài không thiếu một thứ gì, và có thể dùng đi xa trong khoảng 20 năm. Vua truyền cho bốn vị sa di và hai mươi lăm thủ hạ lực lưỡng theo hầu Ngài, chế 30 bộ áo rét, bao tay, nịt chân, khăn trùm, lại biếu Ngài 100 lượng vàng, 30.000 ngân tiền, 500 tấm lãnh và 30 con ngựa. Nhưng điều quý nhất cho Ngài trong chuyến đi này là 24 bức thư cho 24 quốc vương mà Ngài sắp đi qua để yêu cầu họ giúp đỡ Ngài. Mỗi một bức thư lại kèm theo một tấm lãnh để làm tin. Riêng đối với vua nước Ðột Quyết là nước mạnh nhất trong miền Trung Á, vua sai quan Ðiện trung thị ngự sử là Hoan Tín đưa Ngài sang với 500 tấm lụa và lãnh, hai xe các thứ quả quý báu và một bức thư giới thiệu Ngài Huyền Trang với vua nước ấy là Diệp Hộ. Trong thư viết: "Hòa thượng pháp sư này là em tôi, muốn sang cầu pháp bên nước Bà-la-môn, xin Ngài rộng thương Pháp sư cũng như tôi và xin Ngài sắc cho các nước phương Tây cấp cho Pháp sư ngựa Ô lạc (ngựa trạm) để đưa ra khỏi bờ cõi".

Những sự gởi gấm này thật vô cùng quý báu. Ngài Huyền Trang khi ra đi là một kẻ phạm pháp triều đình, đêm ngày trốn lánh, như một tên tù vượt ngục, từ đây, do lòng cương quyết của mình và lòng thành của vua Cao Xương, nghiễm nhiên trở thành một quốc khách của các nước Trung Á và được họ giúp đỡ đưa đến tận biên giới xứ Ấn Ðộ.

Ngày Ngài lên đường, Khúc Văn Thái cùng quần thần, tăng lữ và dân chúng gần cả nước tiễn đưa Ngài ra phía Tây kinh thành. Vua nắm chặt tay Ngài và khóc to. Mọi người đều không cầm được giọt lệ. Nhưng dù cảm tình có sâu đậm bao nhiêu, cũng không thể bịn rịn mãi được, Ngài xây lưng ra đi, Khúc Văn Thái đứng nhìn theo cho đến khi cát bụi và nước mắt làm mờ hẳn hình bóng Ngài trên đường, mới sụt sùi trở về cung.

Dưới dây là bài biểu của Ngài Huyền Trang làm trước khi ra đi để cảm tạ lòng hậu đãi của vua Cao Xương đối với Ngài.

Tạ Cao Xương Quốc Vương Khải

"Trang nghe rằng: Sông bể sâu xa, vượt qua được phải nhờ tay lái; dân sinh mê hoặc, dẫn cho đi, phải mượn lời thiêng. Bởi vậy đức Như Lai, do lòng đại bi cao rộng, hiện sinh cõi dục; lòng lóng trí tuệ sáng lòa, soi khắp chốn mù. Mây từ rợp tuyệt đỉnh trời cao, mưa pháp nhuần ba nghìn cõi rộng. Ðã cùng yên lợi, lại thỏa y quy. Truyền giáo sang Ðông 600 năm lẻ, cuộc thắng hội đã lẫy lừng nơi Ngô, Lạc; lời sấm Thập từng ung đúc đất Tần, Lương. Chẳng trụy thói huyền, đều khuôn nghiệp thành trong; người xa lại dịch, ân nghĩa bất đồng. Ðời cách tánh xa, nghĩa càng sai suyển, khiến cho cái ý chỉ "song lâm nhất vị", rẽ ra là hai phái hiện đương; cái tôn thống "nhị thường bất nhị", tách ra làm hai dòng Nam, Bắc. Phân vân đôi ngả, trải vài trăm năm; suốt cõi nghi ngờ, nào ai quyết định!

"Huyền Trang vốn nhờ phúc cũ, sớm dự cửa thiền, đội tráp theo thầy, năm hầu hai kỷ. Danh hiền các bạn, đã khắp hỏi han; đại, tiểu hai thừa đã từng nghiệm xét. Thường lắm lúc mở kinh ngần ngại, cầm quyển tần ngần. Trông vườn Cấp (Cấp Cô Ðộc) mà kiễng chân, ngóng đỉnh Thứu (Linh Thứu) mà tưởng mến, muốn những bái lâm một chuyến, may ra túc hoặc khỏi ngờ. Vẫn biết rằng ống tre nhỏ không thể dòm được trời, cái bầu con khó lòng tát được bể. Nhưng lòng vi thành không thể bỏ được, nên mới thúc Trang lên đường; thấm thoát dăm trăng vừa đi tới nước Y Ngô.

"Nép thấy Ðại vương, bẩm thụ cái khí thuần hòa của nhị nghi trời đất. Rủ áo làm vua, vỗ về dân chúng; phía Ðông ví bằng phong đại quốc, phía Tây yên cổ tục bách nhung. Những nước lân bang Nhục Chi, nào nơi xa sư Lương Vọng, đều nhờ ơn sâu, đã nhuần đức hậu. Lại nay kính hiền, yêu sĩ, hiếu thiện lưu từ; thương xót kẻ xa xôi đi lại ân cần cho tiếp đãi đến nơi, đã được vào chầu, nhuần ơn càng hậu; tiếp đãi chuyện trò, phát dương pháp nghĩa. Lại được nhờ Ngài giáng kết làm kẻ anh em và còn đưa thư cho hơn 20 nước Phiên cõi Tây vức; giới sức ân càn, sai bảo tiễn tống. Lại thương tôi Tây du vò võ, đường tuyết lạnh lùng, bèn xuống lời minh sắc, độ cho bốn chú tiểu sa di, để làm người hầu hạ. Nào là pháp phục, mũ bông, đệm cừu, giày nịt, hơn năm mươi thứ, và lãnh lụa, vàng bạc, tiền nong để khiến cho sung cái phí vãng hoàn trong hai mươi năm. Nép trông thẹn thùng, sợ hãi, không biết xử trí cách nào. Dẫu khơi dòng nước Giao Hà, ví ơn kia còn sút kém, cân hòn non Thống Lĩnh, đo nghĩa nọ còn nặng hơn. Thông cái hiểm cầu treo, khe thẳm, chẳng cần phải lo; kìa cái hàng cây đạo thang trời, âu cũng sắp tới. Nếu được toại chí thỏa lòng thì cũng là nhờ ơn nhà vua vậy.

"Sau này được bái yết chúng sư, bẩm vâng chính pháp, đem về phiên dịch, truyền bá những điều chưa từng nghe, phá tan cái rừng rậm rạp của những tà kiến, tuyệt hẳn cái ý xuyên tạc của những mối dị đoan; bồi cái sự di khuyết cho nền tượng giáo, định cái kim chỉ nam cho chốn huyền môn. May ra cái công nhỏ ấy đáp được cái ơn sâu kia. Nay tiền đồ còn xa, không thể lưu ở lâu được. Ngày mai từ biệt, thắm thiết bùi ngùi; không xiết đội ơn, cẩn dâng khải lên kính tạ"
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17651)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24484)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25985)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13770)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13174)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22043)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19068)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10002)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11906)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13039)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15181)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10536)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21810)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10119)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9843)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9744)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10189)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27380)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17831)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13189)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25140)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34643)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26749)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19061)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13084)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9001)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9132)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11793)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18517)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8775)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10663)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10951)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27995)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17875)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14409)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16360)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13201)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15522)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14689)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7594)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17035)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8385)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30708)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant