Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Trên đường đi đến các Thánh địa Phật giáo

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4471)
8. Trên đường đi đến các Thánh địa Phật giáo

ÐƯỜNG TAM TẠNG THỈNH KINH

Võ Ðình Cường
(In lần thứ ba, năm 2000 TP. Hồ Chí Minh)

TRÊN ÐƯỜNG ÐI ÐẾN CÁC THÁNH ÐỊA PHẬT GIÁO

Ngài Huyền Trang đi dần về phía Trung Ấn Ðộ. Sau khi đi chừng 1.000 dặm và qua mấy tiểu quốc ở Bắc Ấn Ðộ, một hôm, đi ngang một khu rừng rậm rạp, Ngài và những người bạn đồng hành gặp phải một bọn cướp chừng 50 tên. Sau khi lấy hết cả đồ dùng, áo quần, vàng bạc, chúng nó còn nắm giáo mác đuổi theo Ngài và mấy người lữ hành. Chạy được một đoạn đường, mấy người lữ hành nhận thấy bên bờ một cái hồ khô nước, cây cỏ rậm rạp, có một cái hang rộng, có thể chứa được nhiều người. Họ ra dấu cho Ngài và mấy người cùng nhau chạy xuống đấy ẩn trốn. Bọn cướp đuổi theo sau, đến đây thấy mất tăm dạng các người lữ hành, chúng mới thôi, không đuổi nữa. Sau khi thoát nạn, họ chạy đến một làng gần đấy và kể lại tai nạn vừa xảy ra. Một người Bà-la-môn, có lẽ là xã trưởng, đánh trống hội họp dân làng cùng nhau đuổi theo tiêu trừ bọn cướp. Nhưng bọn này đã cao bay xa chạy vào rừng sâu. Các lữ hành mất hết của cải rất đau buồn, chỉ có Ngài là giữ được vẻ mặt tự nhiên tươi sáng, vì Ngài nghĩ rằng tánh mạng là điều quý nhất chưa mất, thì cái gì rồi cũng có thể tạo lại được.

Mà thật, khi đến một thành phố gần đấy, họ gặp được một vị Bà-la-môn già, có cảm tình với đạo Phật, triệu tập dân chúng và hô hào họ quyên góp vàng bạc, áo quần, vật dụng trao tặng lại cho những người đã bị cướp. Ðiều may mắn nhất cho Ngài là vị Bà-la-môn già ấy lại là đệ tử thông thái của một đại sư đã có công lớn trong sự kiện toàn môn Nhân Minh học, là môn luận lý học của Phật giáo. Ngài Huyền Trang bất ngờ mà gặp được vị đệ tử giỏi về môn học này rất vui mừng, và xin ở lại thụ giáo với vị này trong một tháng trời. Ngài Huyền Trang nhờ môn học này, mà đã thông hiểu một cách tường tận hệ thống triết lý Ðại thừa và nhất là Duy Thức học Phật giáo.

Ngài đi dần về phía đông, và qua mỗi đoạn đường, Ngài lại gặp thêm nhiều minh sư, ích hữu, thu hoạch được rất nhiều kinh điển Ðại thừa quý báu. Ngài ở chỗ này một năm, chỗ kia năm ba tháng để khảo sát, biên chép, hay thỉnh giáo với những vị học rộng biết nhiều.

Rồi Ngài đi dần về phía đông nam, đến thành phố Ma-siêu-la (Mathura) trong lưu vực sông Jumna là thành phố còn giữ rất nhiều di tích của các vị đệ tử tiếng tăm của đức Thích Ca, như Ngài Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Ưu Bà Ly, A Nan Ðà, La Hầu La ...

Sau khi đến chiêm bái các nơi này. Ngài lại đi tiếp sang phía đông, đến thượng lưu sông Hằng. Ðối với tín đồ Ấn Ðộ giáo, sông Hằng là một con sông linh thiêng, bắt nguồn từ trên cõi trời mà chảy xuống đất. Sắc nước luôn luôn thay đổi màu, sóng rất lớn. Nước ngọt và lòng sông toàn cát trắng rất mịn. Theo kinh điển Ấn Ðộ giáo, người ta gọi sông này là sông Hạnh phúc, ai tắm trong nước của nó thì được rửa sạch tội lỗi, ai uống nước của nó, hay chỉ súc miệng thôi, cũng đủ thoát nhiều tai nạn; ai trầm mình chết ở đấy sẽ tái sanh lên cõi trời. Vì thế dân chúng theo Ấn Ðộ giáo đêm ngày tụ tập lễ bái hai bên bờ sông. Và một số người tìm cái chết trong dòng nước thiêng ấy để hy vọng lên cõi trời. Rải rác từng khoảng gần hai bên bờ sông, Ngài thấy có những chiếc sào cắm xuống nước, phía trên đầu có những cái móc hay cái nạn để cho người tín đồ treo mình lên đấy. Từ sáng sớm, khi mặt trời bắt đầu lên, Ngài Huyền Trang đã thấy một vài tín đồ ra sông, tự treo mình dọc theo cái sào ấy với một tay và một chân móc vào cái nạn, còn tay và chân kia thì dang thẳng ra, đôi mắt họ nhìn mặt trời và theo nó từ phía đông cho đến phía tây, từ khi nó mới mọc cho đến khi nó lặn xuống chân trời mới trở về nhà, để sáng hôm sau lại tiếp tục cái công việc ấy. Và cứ như thế, họ làm hết tháng này đến tháng khác, hết năm này đến năm khác, hết hàng chục năm này đến hàng chục năm khác, với mục đích là giải cho tâm linh thoát kiếp luân hồi!

Dọc theo sông Hằng, Ngài Huyền Trang đi đến thành Khúc Nữ (Kanauj) là kinh đô của nước Yết-nhược-cúc-đồ (Kayakubja). Nước này thuộc Trung Ấn Ðộ là miền rất có nhiều thánh tích đức Phật Thích Ca. Thời cổ gọi là "Ðất Giữa" vì nó nằm ở giữa Ấn Ðộ. Khi Ngài Huyền Trang đến, thì Yết-nhược-cúc-đồ là một nước đang thời thịnh trị, dân cư giàu có, vui vẻ làm ăn. Vị vua đang trị vì nước ấy là Giới Nhật (Harsha) một anh quân, rất sùng mộ đạo Phật có thể so sánh được với A Dục vương thời trước. Kinh thành Khúc Nữ nằm trên bờ tây sông Hằng có đến 100 ngôi chùa, tăng lữ có trên vạn người. Khi Ngài Huyền Trang đến đây, vua Giới Nhật không có ở kinh đô, nên không được vua tiếp đón như những nước mà Ngài đã đi qua. Ngài ở lại đây ba tháng, trọ lại chùa Bạt-đạt-di-kha-la (Bhadravihârâ) để học hỏi Tam tạng kinh điển. Sau ba tháng ở thành Khúc Nữ, Ngài lại vượt sông Hằng đi về phía đông, đến một thành có nhiều di tích rất thân thiết đối với Ngài, là thành A Du Ðà (Ayodhya, tỉnh Oude). Thành này còn rực rỡ oai danh của hai vị Bồ-tát có công lớn với Ðại thừa Phật giáo và là những vị đã thành lập môn Duy Thức học, đó là hai anh em Ngài Vô Trước (Asanga) và Thế Thân Bồ-tát (Vasubandhu). Ngài Huyền Trang đến khu rừng Xoài, cách 5, 6 dặm về phía tây nam A Du Ðà, là nơi có tịnh xá mà hai thế kỷ trước, hai vị bồ-tát này đã tu niệm và giảng dạy giáo phái của hai Ngài.

Câu chuyện của hai vị Bồ tát này cũng đáng để cho chúng ta suy gẫm trong vấn đề đi tìm sự thật:

Hai anh em Ngài Vô TrướcThế Thân, gốc ở thượng lưu sông Hằng, đều là những vị thông minh xuất chúng. Nhưng trong lúc Ngài Vô Trước là anh, tu theo phái Ðại thừa thì Ngài Thế Thân là em lại theo Tiểu thừa. Hai Ngài đều có trước tác những bộ luận để xướng minh giáo lý của phái mình, và tất nhiên không thể không có những sự xung đột về lý thuyết.

Một hôm, Ngài Vô Trước mời em đến tịnh xá của mình tại rừng Xoài chơi. Ðêm đến, Ngài Vô Trước dẫn Ngài Thế Thân ra một cái gác dựng bên sông để em nằm hóng mát, còn mình thì trở vào. Ðêm ấy là một đêm thu, có trăng rất đẹp. Trăng và nước hòa hợp trong một bầu trời thu, mênh mông, huyền ảo. Bỗng một giọng tụng niệm trong trẻo thanh thoát ngân lên, ngân lên, bay trong gió, hòa hợp trong không trung. Ðó là một bài luận về Ðại thừa. Qua ý nghĩa bài luận, thế giới vật chất như tan biến, mung lung, mộng ảo như ánh trăng, như hơi nước đang bàn bạc trên sông. Trước mắt Ngài, vật chất chỉ là thế, nghĩa là hư ảo, là duy tâm, là duy thức.

Ngài Thế Thân xúc động đến tận đáy lòng, và cảm thông được cái cao thâm huyền diệu của giáo lý Ðại thừa, Ngài vừa xấu hổ, vừa hối hận, đi vào nhà, xin cắt lưỡi trước mặt anh để chuộc cái tội đã phỉ báng Ðại thừa.

Ngài Vô Trước can em:

– Sao lại cắt lưỡi? Em đã dùng cái lưỡi ấy để công kích Ðại thừa thì nay cũng nên dùng cái lưỡi ấy để xiểng dương Ðại thừa, mới phải chứ!

Ngài Thế Thân nghe theo lời anh dạy. Trước kia Ngài đã viết 500 bộ luận về Tiểu thừa để kích bác Ðại thừa, thì từ đấy, Ngài lại viết 500 bộ luận về Ðại thừa để thuyết minh giáo lý Ðại thừa. Do đó, người đời tôn xưng Ngài là "Thiên bộ Luận sư", vị luận sư tạo ngàn bộ luận.

Ngài Huyền Trang khi đến thăm tịnh xá của hai vị Bồ tát này, chắc không thể không xúc động mãnh liệt, vì giáo lý Duy thức mà hai vị này đã phát huy ra trước Ngài hai thế kỷ, chính là giáo lý mà sau này Ngài đã dùng làm cơ sở cho bộ luận Thành Duy Thức đồ sộ của Ngài, và là căn bản của Pháp Tướng tông.

Từ giã tịnh xá của hai vị Bồ-tát này, Ngài đi thuyền xuôi theo sông Hằng về phía đông để tiếp tục viếng các Phật tích. Trong thuyền có lối 20 hành khách. Thuyền xuôi theo dòng sông, độ vài chục dặm thì xảy ra một tai nạn lớn, có thể nói là lớn nhất trong cuộc hành trình của Ngài từ trước đến nay, và có thể làm Ngài bỏ xác nơi đây.

Thuyền đi vào một khúc sông, hai bên bờ có nhiều cây cối rậm rạp của rừng cây "A Dục". Dưới những tàn cây rậm rạp bổ ra sông, có mười chiếc ghe của bọn cướp đang ẩn núp đợi mồi. Khi thấy thuyền Ngài gần đến, bọn cướp hè nhau bơi thuyền ra chặn đường. Nhiều hành khách sợ quá nhảy ùm xuống sông và mất xác, những người còn lại bị đưa vào bờ và bị bọn cướp lột hết quần áo, của cải. Bọn cướp này thờ "Durga", một nữ hung thần thường bắt các đệ tử cuồng tín phải làm lễ hy sinh người sống cho mình. Thường năm, đến mùa thu, họ tìm một nạn nhân, phần nhiều là đàn ông có hình dáng cân đối, mặt mũi khôi ngô để lấy huyết và thịt dâng cúng cho nữ thần. Khi bọn cướp này nhận thấy Ngài Huyền Trang có khuôn mặt tuấn tú, hình dáng oai nghi, chúng nhìn nhau mừng rỡ. Chúng nói với nhau:

–Chúng ta đã trễ quá thời hạn làm lễ tế thần, vì chưa tìm được một kẻ hy sinh xứng đáng với nữ thần. Nhưng bây giờ chúng ta gặp được nhà sư mặt mũi khôi ngô, thân hình đẹp đẽ này, chúng ta hãy làm lễ tế ngay, để nữ thần ban phước.

Ngài nghe nói, bình tỉnh trả lời:

–Nếu thân xác của bần tăng này đáp đúng ý nguyện của các ngươi, để dâng cúng cho nữ thần, bần tăng thật tình không dám tiếc. Nhưng bần tăng từ phương xa lặn lội đến đây để chiêm bái các Phật tích, cung thỉnh các kinh điểnhọc hỏi giáo lý của đức Thích Ca. Sở nguyện thiết tha ấy chưa thành, mà nay các ngươi đành tâm giết bần tăng, thì bần tăng e rằng các ngươi đã không được phúc mà trái lại còn mang thêm nhiều tai họa.

Những người hành khách quỳ xuống xin bọn cướp tha chết cho Ngài. Có người lại xin thay mạng cho Ngài. Nhưng bọn cướp đều từ chối. Tên đầu đảng truyền lệnh cho bộ hạ vào rừng lấy nước trong và dựng một cái bàn thờ với đất bùn lấy ở dưới sông lên. Xong xuôi nó truyền hai tên thân tín rút giáo, lôi Ngài lên bàn thờ để làm lễ hy sinh ngay. Trong lúc đó sắc mặt Ngài vẫn không đổi, bình thản như thường. Bọn cướp lấy làm ngạc nhiên và không khỏi xúc động. Riêng Ngài, thì Ngài thấy giờ phút cuối cùng sắp đến, nên yêu cầu bọn cướp trì hoãn cho Ngài một lúc để Ngài cầu nguyện và đừng lôi kéo Ngài như thế. Ngài bảo:

–Các ngươi hãy để cho bần tăng được nhập Niết-bàn một cách thanh tịnhhoan hỷ.

Nói xong, Ngài ngồi kiết già, xưng tán đức Di Lặc và chư Bồ tát trong mười phương, mong cầu được nhập vào hàng Thánh chúng để được nghe phápgiác ngộ hoàn toàn. Rồi Ngài lại nguyện sau khi giác ngộ sẽ trở về cõi Ta Bà này khai thị cho bọn cướp, đưa chúng về con đường chính và làm các việc công đức để chuộc những lỗi lầm. Cuối cùng, Ngài nguyện sẽ hóa độ toàn thể chúng sanh, và đưa họ vào cảnh giới an lạc. Nguyện xong, Ngài nhập định và chú toàn tâm lực vào đức Bồ-tát Di Lặc.

Bỗng Ngài nhận thấy tâm hồn lâng lâng siêu thoát, như bay bổng đến núi Tu Di, và sau khi lên đến tầng trời thứ ba, Ngài thấy đức Di Lặc đang ngồi trên tòa sen rực rỡ và quanh Ngài, chư thiên đang ngồi nghe pháp. Trong khi tâm hồn Ngài đang phiêu diêu trong cảnh giới thanh tịnh ấy, Ngài không còn nhận thấy rằng mình đang ngồi trên bàn thờ tế nữ thần, bên cạnh bọn cướp khát máu đang nóng lòng chờ đợi cắt da, xẻ thịt mình, và dưới chân Ngài, chung quanh Ngài, những người đồng hội, đồng thuyền với mình đang than khóc tiếc thương Ngài.

Bỗng một trận cuồng phong nổi lên, làm cây cối gẫy ngã, cát bụi tung đầy trời, sóng cuồn cuộn gầm thét và lật úp ghe thuyền trên sông. Bọn cướp hoảng sợ, hỏi những kẻ bộ hành cùng đi theo Ngài:

–Nhà sư này ở đâu đến và tên ông ta là gì?

Một người trong đám hành khách trả lời:

–Ðó là một cao tăng từ Trung Hoa đi sang đây thỉnh kinh. Nếu các người giết vị sư ấy thì tai họa lớn lao sẽ đến với các người. Các người thấy chưa, gió bão đang nổi dậy đó chính là triệu chứng sự giận dữ của chư thiên trước hành động bạo tàn của các người. Các người hãy mau hối cải mới được.

Bọn cướp sợ hãi, sụp quỳ xuống bên chân Ngài, xin tha tội, nhưng Ngài vẫn điềm nhiên tĩnh tọa, không nhận thấy sự thay đổi đột ngột, kỳ lạ xảy đến chung quanh Ngài. Một tên cướp xích lại gần, nắm chéo áo Ngài van xin tha tội, làm Ngài sực tỉnh.

Khi được biết bọn cướp đã hoảng sợ mà đổi ý, Ngài nhận tin ấy một cách bình tĩnh, không đổi sắc mặt. Ngài khuyên bọn cướp hãy cải tà quy chánh. Bọn cướp ngoan ngoãn xin tuân theo. Trận cuồng phong dịu dần rồi tắt hẳn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8004)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35489)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19647)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11680)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23161)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13340)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5840)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10584)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10330)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10018)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20835)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6197)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6844)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8881)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6009)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18142)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6345)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6721)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6547)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12988)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5860)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7876)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10190)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7859)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9856)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9066)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5975)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24532)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36362)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7712)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11538)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10028)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5223)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5413)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9993)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7874)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9353)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8646)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46485)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6891)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12278)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5792)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14477)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12972)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12415)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14536)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12388)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10948)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9623)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16671)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8463)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5953)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9946)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6371)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11340)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7040)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46681)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13486)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8381)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6850)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9165)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6178)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6893)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17823)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18157)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15766)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6940)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31211)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9570)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7679)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21608)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34159)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33288)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14230)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35629)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13001)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15765)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13674)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33020)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26345)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41397)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40341)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20032)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33688)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29674)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33721)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18860)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22680)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22407)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48986)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11958)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11156)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22495)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17989)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15110)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22672)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15995)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13107)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19716)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12059)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant