Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

12. Tranh luận với các phái Tiểu thừangoại đạo

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 5037)
12. Tranh luận với các phái Tiểu thừa và ngoại đạo

ÐƯỜNG TAM TẠNG THỈNH KINH

Võ Ðình Cường
(In lần thứ ba, năm 2000 TP. Hồ Chí Minh)

TRANH LUẬN VỚI CÁC PHÁI TIỂU THỪA VÀ NGOẠI ÐẠO

Sau sáu năm chu duhọc hỏi khắp năm xứ Ấn Ðộ, Ngài Huyền Trang trở về Na Lan Ðà. Ở đây Ngài được toàn thể Tăng đồ tiếp đón rất nồng hậu và Ngài Giới Hiển vô cùng trọng nể. Vị trưởng lão này giao cho Ngài chủ trì các khóa giảng, ngoài ra còn sai Ngài giảng về Nhiếp Ðại Thừa luận, Duy Thức Quyết Trạch luận cho Tăng chúng cả chùa nghe.

Trong số các đại đệ tử của Pháp sư Giới Hiển có ông sư Tử Quang thấy Ngài Huyền Trang được trọng đãi và làm chủ giảng, có ý không phục. Nhân ông này lấy Trung luận, Bách luận để phá nghĩa lý Du già, Ngài Huyền Trang vốn thông suốt cả Trung luận, Bách luậnDu già, nên hội thông cả ba tông cho là không trái nhau và làm ra 3.000 bài tụng "Hội tông luận", giảng rõ đại nghĩa, trình lên Giới Hiển và đại chúng, ai ai cũng đều khâm phục. Sư Tử Quang tự biết sức học của mình không thể nào theo kịp Ngài Huyền Trang, lấy làm xấu hổ bỏ chùa Na Lan Ðà ra đi, một năm sau mới dám trở lại.

Cũng trong thời gian ấy, có người Thuận Thế ngoại đạo viết ra hơn 40 điều lý luận treo ở cửa chùa Na Lan Ðà và ngạo mạn tuyên bố rằng nếu ai có thể phá được một điều nào, thì anh ta cam chịu cắt đầu đền tội.

Trong chùa không một ai dám bác bẻ. Ngài Huyền Trang liền xin Ngài Giới Hiển và các vị cao Tăng làm chứng cho cuộc biện luận giữa Ngài và người ngoại đạo ấy. Cuối cùng, người này thất lý, đành phải cúi đầu chịu lỗi và yêu cầu thi hành lời thách đố của mình. Ngài Huyền Trang cười bảo:

–Ðã là một kẻ tu hành thì không bao giờ giết người. Anh định để vong hồn anh theo dõi bên mình ta hay sao?

Trong các nước ở Ấn Ðộ thời bấy giờ có nước Ma Kiệt Ðà (hay Yết Nhược Cúc Am) là một nước lớn ở Trung Ấn Ðộ, ở dưới quyền thống trị của vua Giới Nhật (Harsha). Vị vua này rất sùng mộ Ðại thừa Phật giáo, và là một vị vua vừa có tài trị dân vừa là một thi sĩ. Uy tínảnh hưởng chính trị của ông lan xa trong năm xứ Ấn Ðộ. Phật giáo ở Ấn Ðộ thời bấy giờ mất dần thanh thế, nhưng ở nước Ma Kiệt Ðà, nhờ ảnh hưởnguy tín của vua Giới Nhật, vẫn còn thạnh hành.

Khi vua Giới Nhật thân chinh nước Cung Ngự Ðà, đi qua nước Ô Ðồ nghe tin có một vị tu sĩ theo Tiểu thừadanh tiếng của nước đó là Bát-nhã-cúc-đa làm ra 700 bài tụng "Phá Ðại thừa luận", chê phái Ðại thừa là "không hoa ngoại đạo". Vua liền viết thư cho Ngài Giới Hiển xin cho người đến nước Ô Ðồ biện luận phải trái.

Ngài Giới Hiển nhận thư, thương nghị cùng các vị cao tăng đại đức trong chùa Na Lan Ðà, và cuối cùng quyết định cử Ngài Huyền Trang với 3 người nữa là Sư Tử Quang, Hải Tuệ, Trí Quang đến đó biện luận. Ba người sau này lo sợ không dám nhận lãnh sứ mệnh ấy. Trái lại, Ngài Huyền Trang không chút sợ hãi, tìm được nguyên văn 700 bài tụng "Phá Ðại thừa luận", đêm ngày nghiên cứu, có chỗ nào nghi nan thì cùng người Thuận Thế ngoại đạo mà Ngài đã thuyết phục trước kia, thảo luận, rồi viết ra thành 1.600 bài tụng: "Phá ác kiến luận". Những bài tụng này rất được Ngài Giới Hiển và tăng chúng trong chùa thán phục.

Ngài Huyền Trang sắp đi đến nước Ô Ðồ tranh luận thì vua Cưu Ma La (Kumura) ở cực Ðông Ấn Ðộ (bây giờ là Assam) vì hâm mộ sự uyên bác của Ngài Huyền Trang nên sai sứ đến thỉnh Ngài đến nước ấy giảng đạo. Ðiều đáng chú ý là vua Cưu Ma La, mặc dù theo Bà-la-môn giáo, vẫn không ngại nghe giảng về giáo lý Phật đà. Do thái độ rộng rãi, không cố chấp và luôn tìm kiếm học hỏi ấy, nên vua Cưu Ma La được những kẻ tài đức ở các nơi hâm mộ, kính yêu.

Khi vua Giới Nhật thân chinh xong trở về nước mong được hội kiến với Ngài Huyền Trang để sắp đặt cuộc đấu lý giữa Ngài và các phái Tiểu thừangoại đạo, hầu làm sáng tỏ giáo nghĩa Ðại thừa, nhưng Ngài Huyền Trang còn ở nước Cưu Ma La chưa trở về. Vua Giới Nhật một mặt, tức tốc phái người đi trước đến nước ấy triệu Ngài về, một mặt, thân hành đi sau đón Ngài.

Vua Cưu Ma La, vốn là một chư hầu của vua Giới Nhật, nhận được thư của vua Giới Nhật, liền tự mình hộ tống Ngài Huyền Trang trở về. Ðoàn hộ tống ngược dòng sông Hằng, gồm có 20 ngàn thớt voi và 30 ngàn chiến thuyền. Khi đến địa điểm mà hai vị vua đã hẹn gặp thì trời đã tối. Vua Giới Nhật nóng lòng muốn gặp Ngài Huyền Trang, không đợi đến sáng hôm sau, mà truyền quân tức tốc cùng mình đến đón Ngài. Ðêm ấy, giữa giòng sông sáng rực lên mấy ngàn ngọn đuốc và vang lừng tiếng trống lớn. Cứ mỗi bước là 100 cái trống đều đánh lên một lần, đó là nghi lễ đặc biệt chỉ dành cho vị đại vương Giới Nhật mà thôi, các vị vua Ấn Ðộ khác không được theo nghi lễ ấy. Vua Cưu Ma La nghe báo vua Giới Nhật sắp đến cũng lật đật truyền quân đốt đuốc ra nghinh đón.

Khi gặp Huyền Trang, vua Giới Nhật liền quỳ xuống hôn chân Ngài, rồi rải hoa trước mặt Ngài, và nhìn Ngài với một vẻ vô cùng ngưỡng mộ. Sau khi không ngớt lời tán thán Ngài Huyền Trang, vua hỏi có vẻ trách móc tại sao Ngài không đến hội kiến sớm hơn. (Từ khi Ngài Huyền Trang đặt chân đến Ấn Ðộ, lần này là lần đầu tiên Ngài gặp Giới Nhật. Vua thường đi thân chinh, ít khi có mặt ở kinh đô Khúc Nữ).

Ngài trả lời với một vẻ tự tại của một nhà hiền triết rằng vì Ngài đang bận nghiên tầm kinh điển và nhất là đang cố soạn cho xong các bài tụng "Phá ác kiến luận", nên chưa có dịp đến yết kiến vua được.

Tuy mới gặp nhau lần đầu, hai vị danh nhân này đã quý chuộng nhau và có cảm tình sâu đậm đối với nhau. Trước khi hỏi về đạo lý, vua Giới Nhật hỏi về tình hình nước Trung Hoa và được ngài trả lời một cách thông suốt.

Vua hỏi:

–Nước Ðại Ðường ở về phương nào? Cách đây xa hay gần?

–Tâu, nước Ðại Ðường ở về phía đông bắc, cách đây đến hơn vài vạn dặm, tiếng Ấn Ðộ gọi là Ma ha Chi na.

–Ta nghe nước Ma ha Chi na có vua Tần Vương, trẻ tuổi mà đã tinh thông, lớn lên rất là thần võ; gặp buổi trên đời tán loạn, cõi đất chia xẻ lở lang, Tần Vương ra dẹp yên bờ cõi, phong thanh ra đến cõi khác phương xa, đâu cũng mộ pháp xưng thần, có đặt ra khúc "Tần Vương phá trận nhạc", ta nghe tiếng đã lâu, nước Ðại Ðường có phải cũng là nước ấy chăng?

Ngài Huyền Trang tâu:

–Thưa phải! Chi Na là quốc hiệu của đời trước.[Ghi chú: Thì ra chữ "Chi na" là do người Ấn Ðộ gọi Nhà Tùy mà ra (Chi na: Tùy na)]. Ðại Ðường là tên nước của vua tôi, mà Tần Vương là hiệu của vua tôi khi chưa lên ngôi; nay đã vâng đại thống lên ngôi xưng là Thiên tử rồi. Trước đây, khi Tần Vương chưa tức vị, thì nước tôi đang ở trong cảnh vô cùng loạn lạc. Dân không có chủ, đồng ruộng đầy dẫy những xác chết, máu chảy thành sông, thây chất thành núi. Ban đêm những ngôi sao quái dị xuất hiện, ban ngày tử khí bốc lên. Hai bên bờ sông của Tam Hà đều hoang tànthú dữ, còn Tứ Hải thì bị rắn độc hoành hành. Nhưng may nhờ Ngài Ðường Thái Tông (tức Lý Thế Dân) nặng lòng vì nghĩa cả, với một sức mạnh phi thường đã tung kiếm dẹp tan mọi loạn lạc và đem thái bình thịnh trị lại cho muôn dân ....

Sau khi hỏi han về nhà Ðường xong, vua Giới Nhật lại hỏi về công cuộc nghiên cứu đạo lý của Ngài Huyền Trang, nhất là những bài tụng mà Ngài đã làm để hiển dương giáo lý Ðại thừa và bác bỏ những lý lẽ xuyên tạc của ngoại đạo. Sau khi được biết Ngài Huyền Trang đã hoàn tất công tác mà Ngài Giới Hiển đã giao phó, vua Giới Nhật mới hội đàm với vua Cưu Ma La, quyết định thông tri cho các nước, mở một đại hội ở than Khúc Nữ (Kanauj) kinh đô nước Ma Kiệt Ðà, để Ngài Huyền Trang tuyên dương giáo lý Ðại thừa và tranh luận với các phái Tiểu thừaNgoại đạo.

Ðại hội mở vào những ngày đầu xuân năm 643 tại Khúc Nữ, trong một khung cảnh rất đồ sộ. Có thể nói đây là một đại thịnh hội văn hóa thứ nhất trong lịch sử Ấn Ðộ. Tất cả những nhân sĩ học giả uyên thâm của các giáo phái, các học thuyết ở Ấn Ðộ thời bấy giờ đều có đến dự. Người ta đếm được 18 vị quốc vương của 18 nước, 3.000 Tăng lữ thuộc Ðại thừa và Tiểu thừa, trên 2.000 người Bà-la-môn và Ni Càn Ngoại đạo, trên 1.000 Tăng lữ ở chùa Na Lan Ðà đến tham dự hội nghị. Tất cả những người này, mặc dù khác tín ngưỡng, khác học thuyết, nhưng đều là những học giả cao siêu, có uy tín, có ảnh hưởng trong 5 xứ Ấn Ðộ. Người thì đi thuyền theo giòng sông Hằng mà đến; người thì đi voi, đi cán dọc theo bờ sông. Mỗi người đều kéo theo nhiều đám tùy tùng. Cờ xí rợp trời, trống kèn dậy đất. Quang cảnh thật là tưng bừng, rực rỡ và vĩ đại chưa từng thấy.

Vua Giới Nhật đã truyền dựng hai dãy nhà rộng mênh mông để chứa quan khách và Tăng sĩ.

Ngày đầu khai mạc Ðại hội, có cuộc rước Phật. Tượng Phật được cung nghinh trên một thớt voi lớn trang hoàng lộng lẫy. Vua Giới Nhật, vận y phục như thiên thần Indra, nắm quạt trắng đi theo hầu ở phía tay phải tượng Phật; vua Cưu Ma La vận y phục như Phạm Thiên, mang lọng đi hầu ở phía trái. Trước và sau tượng Phật có trên một trăm thớt voi mang những nhạc sĩ và hoa quý để tung lên sau tượng Phật. Ngài Huyền Trang và vua chúa cùng đình thần đến cưỡi mỗi người mỗi thớt voi đi sau vua Giới Nhật và Cưu Ma La.

Ðám rước khởi đầu đi từ doanh trại vua Giới Nhật vào lúc bình minh. Khi đám rước đến cửa hội trường, mọi người đều xuống voi để rước tượng Phật vào điện thờ. Vua Giới Nhật, cứ mỗi bước đi, lại trải ngọc ngà châu báu xuống đất để tỏ lòng sùng kính Tam bảo. Vua tự tay làm lễ tắm tượng Phật với nước hoa, rồi tự mình thỉnh tượng lên trên tháp cao. Sau khi lễ Phật xong, vua Giới Nhật truyền lệnh cho 18 quốc vương thỉnh vào đạo trường 1.000 vị cao tăng đại đức, 500 vị Bà-la-môn và ngoại đạo xuất sắc, 200 vị văn võ triều thần của 18 nước. Những vị tu sĩcư sĩ không vào được trong đạo trường thì sắp hàng đứng ngoài cửa. Sau khi mở tiệc thiết đãi và cúng dường tứ sự các vị tu sĩ. Hội nghị chính thức bắt đầu. Vua Giới Nhật thỉnh Ngài Huyền Trang lên Pháp tọa làm Luận chủ, xưng dương Ðại thừa, chế tạo luận lý và nêu vấn đề cho Hội nghị thảo luận. Ngài Huyền Trang đưa ra rất nhiều lý luận của phái Ðại thừa và lấy bài "Chân duy thức luận" hữu danh của Ngài làm nội dung cho cuộc tranh luận. Ngài sai Sa môn Minh Hiền đọc giữa chúng và dán một bản ở ngoài cửa hội trường để cho những người không thể vào được xem. Dưới bản ấy, vua còn ghi chú: "Nếu ai nhận thấy một chữ sai lầm, vô lý và có thể bác bẻ được thì trẫm sẽ xin chịu cắt đầu để tạ ơn".

Sau khi treo bài luận ấy, từ sáng đến chiều, không một người nào dám đứng ra tranh luận. Những ngày sau, Ngài Huyền Trang vẫn biện luận một cách thông suốt và không gặp một đối thủ nào ngang sức. Ðến ngày thứ năm, phái đối lập thấy lý luận của mình bị đánh đổ tất cả, sanh lòng oán hận, âm mưu tìm cách ám hại Ngài.

Vua Giới Nhật khám phá được âm mưu ấy liền ra một bản tuyên cáo, lời lẽ gắt gao:

"Trong đại chúng, nếu kẻ nào âm mưu làm tổn thương đạo thể Pháp sư Huyền Trang sẽ bị chặt đầu; kẻ nào gièm siểm, mạt sát Pháp sư sẽ bị cắt lưỡi. Trái lại, kẻ nào tin tưởng vào sự công minh chính trực của Trẫm mà bàn cãi một cách đường chính chính, thì sẽ được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến".

Trong 18 ngày liên tiếp, Ngài Huyền Trang giảng một cách minh bạch, nghị luận xác đáng, đưa ra những nghĩa lý tinh vi, thâm thúy, làm cho cả hội trường, không ai cãi chối vào đâu được. Sau khi hội nghị bế mạc, hàng ngàn người đã bỏ đạo lý cũ của mình để xin quy y theo Ðại thừa Phật giáo.

Quốc vương Giới Nhật vô cùng hoan hỷ, truyền đem cúng dường Ngài Huyền Trang 10 ngàn đồng tiền vàng, 30 ngàn đồng tiền bạc, 100 bộ y bằng nỉ. Mười tám vị quốc vương đều tặng Ngài rất nhiều báu vật, nhưng Ngài không nhận một mảy may nào.

Theo cổ lệ Ấn Ðộ, những người đắc thắng trong các cuộc biện luận, được cưỡi voi du hành khắp nơi để được sự hoan hô của quần chúng. Bởi thế, vua Giới Nhật truyền trang hoàng một con voi lớn, có 18 vị quốc vương và các vị đình thần, dân chúng đi theo hộ vệ, rồi mời Ngài Huyền Trang lên voi. Ngài từ chối hai ba lần, nhưng vì mọi người đều nài ép bảo rằng đó là một tục lệ nên Ngài phải làm theo. Ngài trèo lên mình voi. Vua Giới Nhật nâng chéo y của Ngài, long trọng tuyên bố với quần chúng:

–Ðây là vị Pháp sư Trung Quốc đã lập luận về giáo lý Ðại thừa, phá tan mọi tư kiến, luôn trong 18 ngày không ai tranh luận nổi. Vậy hết thảy chúng ta phải nhận biết sự đắc thắng ấy.

Toàn thể hội trường hoan hô nhảy múa, dâng hương tung hoa, và đi theo hộ tống Ngài.

Từ đây, tiếng tăm của Ngài vang dội cả 5 xứ Ấn Ðộ.

Bên lề cuộc thắng lợi vẻ vang mà Ngài Huyền Trang đã thâu hoạch trong cuộc tranh luận với các giáo pháingoại đạo ấy, chúng ta cũng nên biết qua những nỗi khó khăn, trở ngại mà vua Giới Nhật đã gặp phải trong khi tổ chức Ðại hội có một không hai trong lịch sử văn hóa Ấn Ðộ ấy.

Nguyên ở Ấn Ðộ hồi ấy, đạo Phật đã dần dần mất thanh thế, và Bà-la-môn giáo đang vào giai đoạn khôi phục thanh thế đã có từ trước khi đức Phật ra đời. Ngay ở nước Ma Kiệt Ðà là nơi đạo Phật đang còn nhiều uy tín, mà trong triều đình của vua Giới Nhật, phần lớn các quan đại thần đều là tín đồ Bà-la-môn giáo.

Bà-la-môn giáo đang lớn mạnh. Bởi thế, những người lãnh đạo tôn giáo này không muốn vua Giới Nhật tổ chức đại hội nói trên mà kết quả là nâng cao uy tín của đạo Phật và Ngài Huyền Trang, một vị Pháp sư Trung Quốc, và làm lu mờ Bà-la-môn giáo và giới lãnh đạo tôn giáo ấy, trước mắt quần chúng Ấn Ðộ. Họ tìm cách để phá hoại đại hộiâm mưu ám sát cả vua Giới Nhật nữa.

Trong ngày cuối cùng của đại hội, lửa bỗng nhiên bốc cháy ở cái tháp mới cất để thờ Phật trong hội trường, và gian nhà hai tầng cũng làm mồi cho ngọn lửa. Nghe tin chẳng lành ấy, vua Giới Nhật đã đau đớn thốt lên:

–Ta đã đem hết của cải ra bố thí; và theo gương các tiên đế, ta đã xây dựng cái tháp ấy và làm các việc ích lợi khác. Nhưng vì đức ta quá mỏng nên ta không được sự ủng hộ của thần dân. Trước những tai họa và những điềm chẳng lành ấy, ta có cần kéo dài thêm đời sống nữa chăng?

Những cận thần thân tín của vua cũng nói:

–Chúng tôi tin tưởng rằng cái tháp mới xây dựng này sẽ tồn tại đến thiên thu, nào ngờ trong mấy hôm đầu nó đã thành tro bụi. Chắc bọn Bà-la-môn sẽ sung sướng vỗ tay reo mừng lắm.

Nhưng may thay, nhờ Phật gia hộ, đám lửa được dập tắt và các sự thiệt hai không lấy gì làm quan trọng:

Nhưng bọn chủ mưu Bà-la-môn không nản lòng, còn tiếp tục tiến xa hơn nữa trong những âm mưu đen tối. Sau khi lửa tắt, vua Giới Nhật cùng các tiểu vương và đình thần leo lên ngọn tháp để quan sát tình hình. Vua lên đến đỉnh tháp, nhìn xuống dưới một vòng rồi theo tầng cấp bước xuống. Thình lình một kẻ lạ mặt tay nắm đoản đao phóng đến phía vua. Vua Giới Nhật nhảy lui mấy bước, rồi chạy trở lên. Khi kẻ lạ mặt chạy theo gần đến, vua cúi xuống ôm lấy nó và giao cho các quan hộ vệ.

Khi kẻ ám sát đã bị bắt, vua Giới Nhật không đổi sắc mặt, bình tĩnh hỏi lý do vì sao nó muốn giết ngài. Người này khai là những người Bà-la-môn tức giận vì vua đã ưu đãi Tăng sĩ Phật giáo, nên họ dự tính sau khi phóng lửa đốt cháy cái tháp, sẽ thừa dịp lộn xộn để ám sát vua. Nhưng đám lửa đã bị dập tắt ngay, họ không thi hành được như đã dự định, nên thuê người ấy nắm dao đâm vua.

Sau vụ mưu sát ấy, 500 người Bà-la-môn bị đày ra khỏi biên giới Ấn Ðộ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17651)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24484)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25998)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13770)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13174)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22043)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19068)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10002)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11906)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13040)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15181)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10536)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21816)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10120)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9844)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9746)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10190)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27382)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17831)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13189)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25140)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34644)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26750)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19062)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13084)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9001)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9132)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11793)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18518)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8775)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10664)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10953)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27998)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17875)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14409)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16360)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13201)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15522)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14691)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7594)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17036)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8385)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30710)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant