- 1. George Turnour (1799 -1843)
- 2. F. Max Muller (1823-1900)
- 3. Edwind Arnold (1832-1904)
- 4. Robert Caesar Childers (1838-1876)
- 5. Thomas Williams Rhys Davids (1843-1922)
- 6. C.A.F. Rhys Davids (1858-1942)
- 7. Robert Chalmers (1858-1938)
- 8. Edward Joseph Thomas (1869-?)
- 9. Bhikkhu Silàcàra (1871-1951)
- 10. Frank Lee Woodward (1871-1952)
- 11. Ananda Metteyya (1872-1923)
- 12. Ven. Ernest Hunt (1876-1967)
- 13. William Friderich Stede (1882-1958)
- 14. Edward Miles Hare (1893-1955)
- 15. Isaline Blew Horner (1896-1981)
- 16. Christmas Humphreys (1901-1983)
- 17. Dr. Edward Conze (1904-1979)
- 18. Nanamoli Thera (1905-1960)
- 19. Francis Story (1910-1971)
- 20. Ven. Sangharakshita (1925- )
- Tài liệu tham khảo - Sources
HT. Thích Trí Chơn
Nhà xuất bản Phương Đông 2010
GEORGE TURNOUR (1799 -1843)
George Turnour sanh năm 1799, gốc người Anh Quốc, là nhân viên ngành Dân Sự (Civil Ser- vice) làm việc tại thành phố Ratnapura ở Tích Lan. Trong thời gian này, G. Turnour đã học hỏi, nghiên cứu nhiều năm tiếng Sinhalese và cổ ngữ Pali với các nhà sư Tích Lan uyên bác Phật Giáo đương thời. Về sau, ông trở thành một trong những học giả Tây Phương đầu tiên có kiến thức sâu rộng về thánh ngữ Pali.
Suốt mười năm kiên nhẫn, chăm chỉ làm việc, năm 1837 G. Turnour đầu tiên cho ấn hành tại Colombo bản phiên âm tiếng Pali theo mẫu tự La Tinh (Romanized Pali) cuốn Ma- havamsa (Ðại Sử của Tích Lan). Công trình này của ông được xem như một biến cố trọng đại trong việc khám phá, nghiên cứu nền văn học Phật Giáo thánh ngữ Pali của Tích Lan bởi các học giả Tây Phương.
Cũng trong năm 1837, G. Turnour cho phát hành bản dịch từ Pali ra Anh Văn 38 chương đầu trong số 100 chương cuốn Mahavamsa (Ðại sử Tích Lan). Dịch phẩm này của G. Turnour đã gây sự chú ý không ít đối với các học giả và nhân viên chính quyền Anh Quốc bấy giờ trong việc giúp họ nghiên cứu các di tích những thành phố cổ xưa ở Tích Lan. Năm 1868, thống đốc Tích Lan, ông Hercules Robinson chỉ thị thành lập Viện Khảo Cổ Tích Lan (Ceylon’s Archaeologi- cal Department) và Ủy Ban nhằm đi sưu tập, ghi chép các bia ký trong nước. Do nổ lực khảo cứu của Viện Khảo Cổ Tích Lan, nhiều di tích các chùa tháp kiến tạo bởi các vua Tích Lan thời xưa đã được tìm thấy.
Sau khi thành công trong việc dịch ra Anh ngữ nửa phần cuốn Mahavamsa (Ðại Sử Tích Lan), học giả G. Turnour dự tính dịch tiếp phần còn lại của tác phẩm này; nhưng rất tiếc vì đau bệnh nặng, ông đã không thực hiện được. Các chương còn lại của cuốn Mahavamsa sau này đã được dịch và hoàn tất bởi học giả L. C. Wijesinha vào năm 1889.
G. Turnour mất năm 1843 tại Naples, miền nam nước Ý (Italy), hưởng thọ 44 tuổi.
G. Turnour được xem như một trong những học giả tiền phong đã góp phần to lớn vào công việc nghiên cứu và phổ biến thánh ngữ Pali của nền Phật Giáo Tích Lan cho giới độc giả Phật tử ở các nước Tây Phương.
Học giả T.W. Rhys Davids (1843-1922) trong tác phẩm của ông “The History and Literature of Buddhism” (Lịch Sử và Nền Văn Học Phật Giáo) tái bản in lần thứ năm tại Cal- cutta (Ấn Ðộ) năm 1962 (trang 31-32), đã tán thán công đức hoằng pháp này của G. Turnour như sau:
“G. Turnour, con người rất bận rộn, đứng đầu Cơ Quan Dân Sự tại Tích Lan, với sự giúp đỡ của các học giả Tích Lan, thông minh và nhiều kiến thức; ông đã viết, đăng tải trên tạp chí ‘Bengal Asiatic Society’ (Hội Á Châu tại Bengal) một loạt những bài khảo cứu về kinh tạng Phật Giáo tiếng Pali. Năm 1837, G. Turnour cho ấn hành toàn bộ phiên âm thánh ngữ Pali theo mẫu tự La Tinh (Romanized Pali) cuốn Mahavamsa (Ðại Sử Tích Lan) cùng với bản dịch tiếng Anh.
“Giá trị sự đóng góp này của G. Turnour đã được giới học giả Phật tử khắp nơi hoan nghênh. Nhưng ngay sau khi G. Turnour vừa qua đời, không tìm thấy được ai có thể đảm trách công việc dịch thuật của ông. Thời ấy chưa có sách văn phạm và tự điển Pali. Các học giả châu Âu bấy giờ không thể đến Tích Lan; và tại quê nhà họ có thể tiếp nhận sự lợi ích qua công trình đóng góp, phổ biến về kiến thức văn học Phật Giáo tiếng Pali của G. Turnour. Dịch phẩm thánh ngữ Pali của ông ra đời như một biến cố trọng đại tại xứ Tích Lan chưa phát triển, và nó được sử dụng như một động cơ tiếp tục thúc đẩy cho các học giả Tây Phương chú tâm nghiên cứu thêm về cổ ngữ Pali này”.