Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Ba: Những Quán ĐảnhGiáo Huấn

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8991)
Chương Ba: Những Quán Đảnh và Giáo Huấn

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan 
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN HAI
CHƯƠNG BA
NHỮNG QUÁN ĐẢNH 

GIÁO HUẤN

Bấy giờ Retchung nói, “Bạch Đạo sư, ngài đã được Tổ Marpa chấp nhận làm một đệ tử như thế nào?”

Mila kể tiếp :

Sau khi những sư huynh chạy tới chạy lui nhiều lần giữa thầy và lama, ngài phá tan sự im lặng. Bấy giờ ngài có vẻ bình thản, cho gọi sư mẫu Dakmema vào.

Lama hỏi bà, “Ngok Choku Dorje và những sư khác đi đâu rồi?”

“Theo lệnh của ngài, Lama Ngokpa lập tức đi đem về những viên ngọc và xâu chuỗi hồng ngọc của Tổ sư Naropa, và bây giờ đã về tới.”

Bà thuật lại chi tiết Đại Phù Thủy van xin Ngokpa cứu giúp và Ngokpa đã an ủi anh ta như thế nào. Lama chảy nước mắt và nói, “Những đệ tử của con đường bí mật phải là như vậy ; và quả thật họ đang như vậy. Thầy bi mẫn với họ. Hãy tập hợp tất cả những đệ tử của ta.”

Một nhà sư được gởi đi mời Ngokpa nói, “Bây giờ Lama đã bình lặng. Ngài nói tôi mời ngài đến.”

Thầy kêu lên, “Hạnh phúc thay những người có nghiệp tốt! Còn phần tôi, một kẻ tội lỗi đầy nghiệp, dù cho lama có bình thản, tôi cũng sẽ không có phước đức được thấy ngài. Nếu tôi đến, ngài chỉ chửi mắng và đánh đập tôi.”

Khóc lóc, thầy ở lại. Ngokpa nán lại với thầy, nói với nhà sư, “Hãy đi và nói với Lama tình trạng của Đại Phù Thủy. Hỏi xem anh ta có thể diện kiến ngài hay không. Nếu tôi không ở lại bên anh ta lúc này, tôi e rằng con người này sẽ làm cái gì đó thật kinh khủng.”

Nhà sư thuật tất cả những biến cố này cho Marpa. Marpa trả lời, “Trước đây thì Ngokpa nghĩ như vậy là đúng. Nhưng hôm nay, ta sẽ không làm như xưa nữa đâu. Đại Phù Thủy là khách mời chính. Hãy để cho sư mẫu đi đem nó vào đây !”

Sư mẫu vừa mỉm cười vừa lo sợ, nói với thầy, “Này sư đệ Đại Phù Thủy, bây giờ lama có vẻ xem con như là đệ tử. Ngài hình như đã thay đổi sâu xa vì lòng đại bi. Ngài nói rằng con là vị khách chính, và bảo ta đến mời con. Ngài đã không nói lời nặng nề với ta. Chúng ta hãy vui sướngđi vào.”

Thầy tự hỏi điều này có thật hay không và đầy lo ngại, thầy đi vào.

Bấy giờ lama nói:

“Nếu xem xét mọi sự cẩn thận, thì không ai trong chúng ta đáng trách cả. Ta chỉ thử thách Đại Phù Thủy để làm sạch sẽ tội lỗi của nó. Nếu công việc xây tháp là có ý định cho ích lợi riêng của ta, chắc ta hẳn nhẹ nhàng dịu ngọt khi ra lệnh mới phải. Ta luôn luôn chân thành. Là một phụ nữ, sư mẫu cũng đúng khi không thể chịu đựng nổi sự việc ấy cho dù lòng bi mẫn thái quá của bà trong việc lừa dối với những vật thiêng liêng và bức thư giả mạo là một hành động nghiêm trọng. Ngokpa, con là đúng trong cách làm của con. Tuy nhiên hãy đi bây giờ và đem về những đồ vật thiêng liêng ấy cho thầy và sau đó thầy sẽ cho con những cái ấy. Đại Phù Thủy thì cháy rực tham muốn đạo pháp, và nó đã đúng khi dùng bất cứ phương tiện nào để có được pháp. Ngokpa không biết rằng sư mẫu đã gởi người đi với tư cách giả mạo. Bởi thế, ông ta đã ban cho Đại Phù Thủy quán đảnhgiáo huấn. Như vậy thầy làm sao trừng phạt ông ta được.

Dù sự tức giận của thầy có khởi lên như thác lũ, nó cũng không giống như sân giận thế gian. Cho dù chúng có xuất hiện, những hành động của thầy bao giờ cũng đến từ những cân nhắc thuộc về đạo pháp, chúng trong bản chất tương ưng với Con Đường Giác Ngộ. Khi phần lớn các con còn chưa ngập mình trong Đạo, chớ có để niềm tin của các con bị lay chuyển.

Nếu đứa con này của thầy hoàn thành được chín đại thử thách, thì sự Giác Ngộ hoàn toàn của nó được thành tựu, không còn tái sanh tương lai, không để lại tàn dư của thân xác. Nhưng vì sự yếu đuối của Dakmema mà điều đó đã không xảy ra, vẫn còn một phần nhiễm ô dơ bẩn yếu ớt trong nó. Tuy nhiên những đại tội ác nghiệp của nó đã được xóa sạch bởi tám đại khổ đau của tâm thức và bởi nhiều cơn hấp hối nhỏ của tâm thức. Giờ đây, thầy nhận con và sẽ cho con giáo pháp của thầy, nó thân thiết với thầy như chính trái tim thầy. Thầy sẽ giúp những lương thực, con hãy thiền định và được hạnh phúc.”

Khi ngài nói những lời này, thầy tự hỏi, “Đây là mơ hay tỉnh ? Nếu nó là một giấc mộng, tôi muốn không bao giờ thức dậy nữa.” Nghĩ như vậy, hạnh phúc của thầy thật vô biên. Chảy nước mắt vì sung sướng, thầy đảnh lễ ngài. Sư mẫu, Ngokpa và những người khác nghĩ, “Lama quả là có phương tiện thiện xảothần lực biết bao khi ngài muốn nhận một đệ tử ! Bản thân Lama là một Phật Sống.” Và tín tâm của họ càng kiên cố. Từ tình thương cho thầy, tất cả đều hân hoan lễ lạy trước lama.

Sau đó mọi người tụ hội vui vẻ tham dự cử hành một tiệc lễ. Chiều tối hôm đó, ngay ở chỗ đại chúng tụ hội, các đệ tử đặt những lễ vật trước bàn thờ. Marpa nói với thầy, “Ta làm lễ xuất gia, truyền thọ giới giải thoát cho con.” Và ngài cạo tóc cho thầy.

Khi thầy đã mặc y áo của một ông tăng, lama nói, “Pháp danh của con là Mila Vajra Ngọn Cờ Chiến Thắng, đã được đức Naropa phát lộ cho thầy ngay cả trước khi con đến đây.”

Ngài truyền thọ giới Sa di và giới Bồ tát cho thầy. Qua thiền định ngài chú nguyện rượu với sự cúng dường bên trong trong một cái chén sọ người của sự giải thoát.(1) Mọi người đều thấy rượu sủi bọt với ánh sáng năm màu. Marpa cúng dường cho lama của ngài và cho yidam, rồi ngài uống. Ngài trao cho thầy cái chén và thầy uống cạn.

Lama nói, “Đây là một điềm tốt. Chỉ nếm rượu cúng dường bên trong của thầy tự nó đã cao hơn nhận lãnh quán đảnh trọn bộ của dòng phái khác. Sáng sớm mai, thầy sẽ ban cho con Quán Đảnh Chuyển Hóa theo con đường Mật thừa.

Rồi một mạn đà la tỉ mỉ, mạn đà la Chakrasamvara,(2) với sáu mươi hai vị thần, được tạo thành cho lễ quán đảnh. Khi ban lễ quán đảnh, ngài chỉ vào mạn đà la bằng bột màu. Ngài nói, “Cái này chỉ là một biểu tượng của mạn đà la. Mạn đà la thật sự ở trên kia.” Ngài chỉ tay lên bầu trời và chúng ta thấy rõ ràng Bổn Tôn Chakrasamvara bao quanh bởi những daka và dakini của hai mươi bốn cõi thiêng liêng, ba mươi hai thánh địa, và tám địa điểm chính để trà tỳ.(3) Cùng lúc và với một giọng, lama và những thần của mạn đà la ở trên ban cho thầy pháp danh quán đảnh là Pal Zhepa Dorje (Kim Cương Vinh Quang Cười).

Đưa cho thầy bản văn Tantra đầy đủ, lama chỉ cho thầy chi tiết những cách thức thực hành phù hợp với giáo huấn sâu xa. Rồi đặt hai tay lên đầu thầy, ngài nói:

“Con của ta, ngay từ phút giây đầu tiên ta đã biết con là một đệ tử có khả năng nhận lãnh giáo pháp. Đêm hôm trước khi con đến đây, thầy đã biết từ một giấc mộng rằng con được tiền định để phụng sự Phật pháp. Sư mẫu, trong một giấc mộng tương tự nhưng còn đáng chú ý hơn, đã thấy hai nữ hộ pháp giữ gìn một cái tháp, chỉ ra rằng những dakini sẽ bảo vệ cho giáo pháp của dòng chúng ta. Như thế, lama của thầy và bổn tôn thủ hộ đã gởi con đến làm một đệ tử của thầy. Thầy giả trang làm người cày ruộng để gặp gỡ con.(4) Con đã uống hết số bia thầy đưa cho con. Bia này và công việc hoàn tất chỉ ra rằng trong việc thâm nhập vào lòng Phật pháp, con sẽ nắm được toàn bộ giáo lý. Cái nồi đồng có bốn tay cầm con dâng cho thầy chỉ cho thấy bốn đại đệ tử của thầy lần lượt đến. Mặt nồi không tì vết nghĩa là tâm thức con sẽ thoát khỏi tì vết và trong thân thể con, con sẽ có quyền lực đối với cái lạc của lửa Tummo.(5) Cái nồi trống không tượng trưng cho sự thiếu thốn lương thực trong thời gian con thiền định lâu dài ở chốn hoang vu. Nhưng để gieo trồng những hạt giống cho tuổi thọ của con, cho sự tốt đẹp của nhiều đệ tử của con, và cho việc con sẽ làm tràn đầy những đệ tử của con với vị ngọt ngào của Pháp, thầy đã ban phước đổ đầy cái nồi với bơ từ những ngọn đèn thờ. Thầy lắc nó nghĩa là sự danh tiếng trong tương lai của con. Để tịnh hóa con khỏi bóng tối của ác hạnh, thầy đã chồng chất lên con công việc kinh khủng và không ngừng là xây dựng những cái tháp. Bốn cái tháp tượng trưng cho bốn hoạt động: làm bình an, làm tăng trưởng, thần lựchàng phục.

“Mỗi khi thầy thô bạo đuổi con khỏi hàng ngũ những đệ tử và làm con chìm đắm trong đau buồn, con đã không có những tư tưởng xấu về thầy. Điều này nghĩa là những đệ tử của con sẽ trước hết có tất cả sự nhiệt tâm, kiên trì, trí huệđại bi cần thiết cho mỗi người đệ tử. Tiếp theo, họ sẽ bền bỉ thiền định trong núi non qua kỷ luật khổ hạnhnghị lực mà không tham muốn sự sung túc của thế gian. Sau rốt, qua kinh nghiệm bên trong, nghị lực tâm linh, trí huệđại bi, tất cả họ sẽ thành những lama hoàn thiện. Sự truyền thừa của giáo pháp này sẽ càng ngày càng sáng tỏ như mặt trăng càng đến ngày rằm. Thế nên hãy vui mừng!”

Đó là tất cả những điều ngài nói trước. Khuyến khích chúng đệ tử, ngài gây cảm hứng cho bọn thầy và cho bọn thầy niềm hoan hỷ. Đây là sự bắt đầu của hạnh phúc của thầy.

Milarepa nói như thế. Đây là chương thứ ba, nói về ngài có được quán đảnhgiáo huấn trong con đường Mật thừa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17660)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24499)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26008)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13774)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13180)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22061)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19077)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10005)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11916)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13044)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15195)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10541)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21829)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10136)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9850)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9751)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10194)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27433)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17845)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13198)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25165)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34675)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26767)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19071)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9008)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13089)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9010)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9453)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9140)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11797)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18526)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8786)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10669)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10959)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28005)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17880)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14413)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16366)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13208)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15540)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14697)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7603)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17053)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8398)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30723)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant