Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hoà Thượng THÍCH BẢO AN

20 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13768)
Hoà Thượng THÍCH BẢO AN

 

 

htthichbaoan-2

Đại Lão Hoà Thượng THÍCH BẢO AN



CÁO BẠCH TANG LỄ

 

Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh Việt NamMôn đồ Pháp quyến Tổ Đình Phổ Bảo vô cùng kính tiếc báo tin:

 

Đại Lão Hòa Thượng THÍCH BẢO AN

 - Trưởng Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Bình Định

 - Thành viên sáng lập Tu viện Nguyên Thiều - Bình Định

 - Viện chủ Tổ Đình Phổ Bảo – Tuy Phước, Bình Định

 

Sau một thời gian bệnh duyên, mặc dù đã được môn đồ và các y bác sĩ tận tình chữa trị, nhưng thân tứ đại của Hòa Thượng đã đến lúc thuận thế vô thường, an nhiên viên tịch vào lúc: 01 giờ 45 phút sáng ngày 22 tháng Giêng năm Tân Mão (nhằm ngày 24 tháng 2 năm 2011). Tại: Tổ Đình Phổ Bảo – xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, Bình Định.

Trụ thế: 98 năm, 70 Hạ lạp.

Lễ nhập quan vào lúc: 3 giờ chiều ngày 22 tháng Giêng năm Tân Mão (nhằm ngày 24 tháng 2 năm 2011).

Lễ truy niệm và cung tiễn kim quan nhập đại bảo tháp sẽ được cử hành vào lúc: 7 giờ sáng ngày 27 tháng Giêng năm Tân Mão (nhằm ngày 01 tháng 3 năm 2011).

Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh Việt NamMôn đồ Pháp quyến Tổ Đình Phổ Bảo kính báo và cung thỉnh chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, Phật tử thân lâm đạo tràng Phổ Bảo để kính viếng, hộ niệmtiễn đưa nhục thân Đại Lão Hòa Thượng nhập đại bảo tháp được thập phần viên mãn.


Nay kính tin,

Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh Việt Nam

Môn đồ Pháp quyến Tổ Đình Phổ Bảo Bình Định

 

 

htthichbaoan-2

Đại Lão Hoà Thượng THÍCH BẢO AN

 

“Trung Bộ Đạo Thọ,

Long Tượng Thiền Môn,

Chúc Thánh Đống Lương,

Cao Tăng Giáo Hội”

 

Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đìnhgia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.

Năm 1926 – Khi vừa tròn 12 tuổi – vốn sẵn chủng tử Bồ Ðề từ nhiều kiếp, cơ duyên đã đủ, nhân xuất gia đến thời bộc phát, cáo biệt song thân Hoà Thượng đến Tổ đình Hưng Khánh thuộc thôn Hưng Nghĩa, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, Bình Ðịnh, xin đầu sư cùng Ngài thượng CHƠN hạ HƯƠNG, hiệu CHÍ BẢO; nhưng bấy giờ, Ngài CHÍ BẢO vì tuổi đã cao, nên chỉ định đệ tử mình là Ngài thượng TÂM hạ ẤN, húy NHƯ HÒA - thuộc đời Lâm tế Chánh Tông thứ bốn mươi mốt – tiếp thọ và trực tiếp hướng dẫn.

Sau khi xuất gia, với bẩm chất thông minh, tính tình nhu hòa, thuần hậu, cùng với sự cần mẫn hầu Thầy học đạo, Hòa Thượng được các bậc trưởng thượng hết mực tin yêu, chư pháp hữu, đệ huynh đều quý mến. Ngày đến, Hoà Thượng cùng chúng trong chùa chấp lao phục dịch; Ðêm về dưới ngọn đèn dầu, Hoà Thượng được Ngài CHÍ BẢO truyền dạy những giáo nghĩa thâm thuý Phật học, cùng các nghi thức Du Già. Tuy việc học tập và việc chúng trong chùa khá nhiều, nhưng Hoà Thượng vẫn chu toàn mọi trách nhiệm của một người thị giả đối với Sư Ông mình là Ngài CHÍ BẢO, cùng phụ giúp Bổn sư là Ngài TÂM ẤN, những công việc thường nhật trong chùa. Với sự nỗ lực trau dồi Ðiển chương, tinh tấn hành trì Kinh kệ, cần mẫn hoàn tất mọi công việc của Chúng giao phó, chẳng bao lâu Hoà Thượng đã dõng mãnh vượt xa huynh đệ đồng môn.

Năm1931, Hoà Thượng thọ Sa Di giới tại Giới đàn Trường kỳ Phước Sơn – Bồng Sơn, do Ngài CAM LỒ làm Ðàn Ðầu Hoà Thượng, Ngài CHÍ BẢO làm Chứng Minh Ðạo Sư, Ngài BÍCH LIÊN làm Tuyên Luật Sư.

Năm 1932, Ngài TÂM ẤN được hương quyền tộc thuộc cùng bổn đạo cung thỉnh về trụ trì Tổ đình Phổ Bảo. Hoà Thượng được chính thức theo Ngài TÂM ẤN về chùa Phổ Bảo, để phụ giúp Bổn sư trông coi việc Chùa, thay thế Bổn sư điều hành công việc Chúng, trong những lúc Ngài TÂM ẤN bận Phật sự. Với tâm tinh cần không quản ngại khó khăn cực nhọc, mọi công việc do Ngài TÂM ẤN giao phó, Hòa Thượng đều hoan hỷ đón nhận và cố gắng chu toàn, nên ngày Hòa Thượng càng được Bổn sư tin tưởng thương mến.

Năm 1938, vì tuổi cao sức yếu nên Ngài CHÍ BẢO đặc cử Ngài TÂM ẤN trực tiếp đảm nhận công việc điều hành Phật sự tại Tổ đình Hưng Khánh. Cùng năm đó, Phật Học đường Long Khánh do hội Phật học Bình Ðịnh tổ chức tại chùa Long Khánh - Qui Nhơn, Hòa Thượng được Ngài TÂM ẤN giới thiệu theo học dưới sự chỉ dạy của Quốc Sư THÍCH PHƯỚC HUỆ.

Năm 1940, Ngài TRÍ ÐỘ - bấy giờ đang là Giám đốc Trường An Nam Phật Học – từ Huế về Bình Ðịnh, đảnh lễ ngài Chí Bảo và xin phép ngài Tâm Ấn được phép bảo lãnh Hoà Thượng ra Huế tham học. Cơ duyên đã đến, Hòa Thượng theo gót Ngài TRÍ ÐỘ ra Trường An Nam Phật Học tại Chùa Trúc Lâm - Huế tiếp tục nâng cao kiến thức Phật học. Ðồng học môn của Hoà Thượng ngày ấy gồm: HT. Thích Trí Quang, HT. Thích Thiện Siêu, HT. Thích Thiện Minh, HT. Thích Huyền Quang, HT. Thích Phước Trí, HT. Thích Tâm Hoàn.

Năm 1942, Ðại giới đàn được tổ chức tại Tổ Ðình Hưng Khánh do Ngài CHƠN HƯƠNG hiệu CHÍ BẢO làm Hòa Thượng Ðường Ðầu. Nhận biết cơ duyên đã đủ, ngài TÂM ẤN cho phép Hòa Thượng đăng đàn thọ Cụ túc giới, chính thức nhận Y – Bát, bước lên giới phẩm Tỳ Kheo, ngõ hầu nối gót Chư Tổ “hành Như Lai sứ, tác Như Lai sự”.

Năm 1943, chính trường trong nước gặp nhiều thay đổi, Trường An Nam Phật Học phải tạm thời đóng cửa, Hòa Thượng trở về Tổ Ðình Phổ Bảo tiếp tục phụ giúp Bổn sư trong công việc trùng kiến Tổ Ðình Phổ Bảo, cũng như đảm trách những Phật sự ở tỉnh nhà. Việc theo học tại Trường An Nam Phật Học của Hoà Thượng bị gián đoạn kể từ đó.

Năm 1947, hưởng ứng lời kêu gọi của Uỷ ban hành chánh kháng chiến Nam Trung Bộ, Hội Thanh Niên Cứu Quốc, Hòa Thượng cùng chư sơn lúc bấy giờ khởi xướng và sáng lập Ðoàn Thanh niên Tăng sĩ Bình Ðịnh. Tổ chức này bấy giờ hoạt động nằm trong bí mật, Chủ tịch là HT. Thích Giác Tánh, Hòa Thượng được cử làm Phó Chủ tịch, cùng với HT. Thích Huyền Quang và HT. Thích Tâm Hoàn làm thư kýgiáo thọ.

Năm 1948, Ngài CHƠN HƯƠNG hiệu CHÍ BẢO viên tịch, Ngài TÂM ẤN trở về Tổ Ðình Hưng Khánh lo việc tang lễ và kế thừa trụ trì Tổ Ðình Hưng Khánh cho đến ngày viên tịch. Hòa Thượng được Bổn sư chính thức truyền trao trách nhiệm trụ trì Tổ đình Phổ Bảo.

Năm 1949, Hòa Thượng được cử làm Hội trưởng Hội Phật giáo Tuy Phước. Cùng năm này, Hòa Thượng cùng chư Tôn đức trong Tỉnh đứng ra cổ động thành lập chúng Lục Hòa tỉnh Bình Ðịnh, và Hoà thượng được mời giữ chức vụ Chúng trưởng huyện Tuy Phước (năm 1951).

Năm 1952, Hòa Thượng được mời làm Cố vấn đoàn chúng A –Nan.

Sau hiệp định Genève, Hòa Thượng vẫn tiếp tục được cử làm Hội trưởng Hội Phật Giáo huyện Tuy Phước.

Năm 1958, dù phải đảm trách khá nhiều phật sự của Giáo hội, dù phải lo chu toàn mọi việc tiếp Tăng độ chúng trong Chùa giữa thời buổi khó khăn của cuộc chiến. Song, Hòa Thượng vẫn cùng chư tôn đức trong Tỉnh, như: Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Tâm Hoàn, HT Thích Ðồng Thiện, Hòa Thượng Thích Ðổng Quán.v.v. cùng chung bắt tay nhau đứng ra sáng lập Tu viện Nguyên Thiều, dùng làm cơ sở “Bồi Dục Tăng Tài” cho Tỉnh nhà và Giáo hội. Buổi đầu Phật Học viện Nguyên Thiều ra đời, Hòa Thượng được bầu làm Phó Ban Quản trị khóa I (năm 1960).

Năm 1963, Ngài Tâm Ấn viên tịch, Hoà Thượng được tín đồ cung thỉnh về giữ trách vụ trụ trì Chùa Hưng Khánh. Từ đó “một bổn hai quê” Hoà Thượng đảm trách điều hànhchu toàn mọi Phật sự ở cả hai ngôi Tổ Ðình: Phổ Bảo và Hưng Khánh.

Năm 1964, Hoà Thượng trùng kiến lại toàn bộ chùa Hưng Khánh một cách quy mô và khang trang như ngày nay. Cùng năm đó, chính trường trong nước gặp nhiều biến cố, cuộc chiến ở miền Trung Việt Nam ngày một trở nên khốc liệt. Trước tình hình đó, Hoà Thượng nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt những Tăng sinh đang tu học tại Phật học viện Nguyên Thiều thời bấy giờ vào Sài-gòn lánh nạn. Tại Sài-gòn, Hoà Thượng được tín đồ cung thỉnh nhận chức trụ trì Niệm Phật Ðường Ấp Tây Ba, Phú Nhuận. Cuối năm đó, Hoà Thượng xây dựng khang trang lại ngôi Niệm Phật Ðường này và cải hiệu thành Giác Uyển Tự.

Cũng năm 1964, với phong cách diễn xuất cổ truyền già dặn, nhuần nhuyễn, uyển chuyển các Khoa nghi, Tiết thứ trong Nghi lễ của Thiền gia Bình Ðịnh, Hòa Thượng được mời làm Ðặc Ủûy nghi lễ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Bình Ðịnh, khóa I.

Năm 1965, Hòa Thượng được mời làm Chánh Ðại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất huyện Tuy Phước.

Năm 1968, Hòa Thượng được Chư tôn đức cung thỉnh giữ chức vụ Ðặc Ủy Tăng sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Bình Ðịnh, khóa II.

Năm 1969, Hòa Thượng tiếp tục được mời làm Phó Giám đốc Phật Học viện Nguyên Thiều, khóa II.

Năm 1973, Hoà Thượng giữ chức vụ Ðặc Ủy cư sĩ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Bình Ðịnh, khóa III.

Năm 1979, Hoà Thượng được mời làm Phó Ban đặc cách giáo dục Tăng ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Nghĩa Bình, khóa I. Trưởng Ban Ðại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam huyện Tuy Phước.

Năm 1985, Hoà Thượng là Thành viên trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Nghĩa Bình, Trưởng ban Nghi lễkiểm soát Tăng ni, Phật tử khóa II.

Từ năm 1989 đến nay, Hoà Thượng là một trong những vị Hoà Thượng Chứng minh cao niên trong hàng Tôn Túc của Phật giáo Bình Ðịnh.

Năm 1999, với sự nghiêm trì giới Luật, oai nghi khả kính cùng những đóng góp Phật sự to lớn của Hòa Thượng, tại Phương Trượng Tổ Ðình Chúc Thánh – Hội An, toàn thể môn phái Chúc Thánh Minh Hải suy tôn và cung thỉnh Hòa Thượng làm Trưởng Môn phái Chúc Thánh Minh Hải tại ba tỉnh Bình Ðịnh, Phú Yên và Quảng Ngãi, ngõ hầu làm tấm gương sáng cho hàng hậu bối noi theo (ngày 7/11/1999).

Năm 2000, Hoà Thượng được cung thỉnh làm Chứng Minh Ðạo Sư Ðại giới Ðàn Chánh Nhơn – Bình Ðịnh. Cùng năm, Hoà Thượng được Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ cung thỉnh chứng minh Ðại lễ Cung nghinh và Triển lãm xá lợi Phật Tổ tại Bồ Ðề Ðạo Tràng – Ấn Ðộ.

Ðầu năm 2001, sau khi chiêm bái các Thánh tích Phật giáo tại Ấn Ðộ và Népal, trên đường trở về Việt nam, Hoà Thượng đến viếng Vương quốc Phật giáo Thái Lan. 

Nay tuổi đã cao (hiện thọ 89 tuổi), sức khoẻ ngày một yếu dần, nên Hòa Thượng giao phó việc trụ trì Tổ Ðình Phổ Bảo cùng những Phật sự cho đệ tửThượng tọa Thích Ðồng Chơn, để niệm Phậtan dưỡng tuổi về chiều. 

 

Lê Bích Sơn phụng soạn

Tháng 6 năm 2002

 


***

htthichbaoan-2
Đại Lão Hoà Thượng THÍCH BẢO AN

 


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

 

 Kính lễ giác linh đại Lão Bảo An Hoà Thượng.

 Đăng Lâm Phật Quốc Tọa Bảo Liên Đài !

 

Câu Đối Thầm Thương Lòng Đức Độ :

 

1.Bảo An Hòa Thượng Nhất Đại Tôn Sư Đại Hỷ Đại Từ Trung Nam Bắc Phái Tề Tâm Kính Ngưởng.

 

2. Phổ Bảo Danh Lam Thiên Ban Diệu Dụng Ban Tuệ Ban Ân Thượng Hạ Biên Phương Chí niệm Quy Y.

 

Kính lễ bạch Giác Linh Hòa-Thượng,

Nay đã qua 64 năm, Tưởng nhớ năm Đinh-hợi 1947, Tôi với Tăng đoàn Bình Định thời đó, cùng sát cánh Hoằng Pháp bên nhau. 12 giờ khuya Tôi đến và ở với Ngài suốt 5 hôm.

 Ngài nhổ “Nấm rơm tươi với cải non” đải tôi thọ dụng thời kham khổ ấy… Để lại lòng nhiều kính nhớ… !

 Tôi kính Ngài bậc đàn anh đức độ !

 Ngài coi tôi trong dòng kệ chữ Như. Tương kính tương thân!

Nay kính lễ dâng Câu Đối điếu Giác Linh Ngài !

Kính xin Giác Linh Hoà-Thượng Từ Bi Chứng Giám.

 

Chia sớt nỗi buồn với chư tôn môn đồ cùng quí quyến, Tôi xin kính nhất tâm cầu nguyện Thượng Phẩm Thượng Sanh ! Dâng Ngài. Và mong chư tôn môn noi gương Đức Độ của Cố Hoà Thượng !

 

HT. Thích Huyền Tôn
Ngày mùng 2 Tháng Hai Tân-mão 4890.

Chứng Minh Đạo Sư

GH Úc Châu.

 



THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM TÔN SƯ
Cố Đại Lão Hoà Thượng THÍCH BẢO AN

- Trưởng Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Bình Định
- Thành viên sáng lập Tu viện Nguyên Thiều - Bình Định
- Viện chủ Tổ Đình Phổ Bảo - Tuy Phước, Bình Định

* * *

Thành kính đảnh lễ giác linh Sư Ông,

Mãi cho đến hôm nay, khi viên gạch cuối cùng được lát xuống nền chánh điện Đạo Tràng Phổ Hưng, con mới có chút thời gian rảnh để ngồi viết những dòng chữ muộn màn này, hầu kính dâng lên giác linh Sư Ông như một lời sám hối với tất cả thành tâm của một môn đệ Phổ Bảo – Hưng Khánh đang độc hành trên cuộc đăng trình viễn xứ.

Con ngồi đây xâu chuỗi lại những gì ký ức có thể ghi nhớ về Sư Ông - bậc “Tôn Túc Mô Phạm”, bậc “Long Tượng Thiền Môn” mà con từng có thiện duyên được gần gũi và thấm nhuần ân đức.

Ngưỡng bái bạch giác linh Sư Ông,

Nếu như cuộc đời mỗi con người đi theo một định mệnh, thì khúc quanh của mỗi một đoạn đường đời là dấu ấn khó phai mờ. Ngả rẽ cuộc đời con bắt đầu vào một ngày chớm Đông năm Đinh Mão. Ngày ấy con theo chân Mẹ bước qua cái cổng Tam quan cũ kỹ của chùa Hưng Khánh để bắt đầu cuộc hành trình của một người xuất gia học đạo. Và con được gần Sư Ông kể từ những ngày tháng đó…

Con còn nhớ rõ lắm. Lần đầu tiên gặp con, Sư Ông hỏi: “Con vô chùa làm gì?”; con trả lời: “Con muốn xuất gia, tu học.”; Sư Ông cười nói: “Vậy ‘da’ (gia) con bị ‘sứt’ (xuất) chỗ nào?”… con không biết trả lời sao, chỉ biết mỉm cười. Ngày con mới bắt đầu những bước chân sơ cơ ở chốn Thiền môn, chùa Hưng Khánh chỉ có mỗi một cuốn Kinh Nhật Tụng, khi học Kinh phải chép tay ra giấy để học. Con học thuộc Đại Bi, Thập Chú, v.v. trong thời gian rất ngắn. Phần thưởng những ngày đầu xuất gia Sư Ông dành cho con là một cuốn Nhật Tụng mới tinh từ Phổ Bảo mang về. Với con ngày ấy, được cuốn Kinh Nhật Tụng như Đường Tăng trong Tây Du Ký được chân Kinh!

Một năm sau, chùa có thêm chú Dũng. Sư thúc Đồng Văn từ Sài Gòn về ăn Tết bắt hai chú tiểu Hưng Khánh phải đi cắt tóc thật ngắn. Sư Ông từ Phổ Bảo về, hai đứa lên đảnh lễ… Sư Ông nhìn thật lâu rồi nói: “Chùa này nuôi hai điệu nhưng trái ngược nhau: một mập một ốm, một đen một trắng, một Đại Hàn một Ấn Độ…” (vì tóc con cắt ngắn ai cũng nói nhìn giống Đại Hàn). Và cái tên “Thằng nhỏ Đại Hàn” cũng được Sư Ông gọi con kể từ ngày đó.

Những năm cuối của thập niên 1980, đời sống quê mình còn nhiều cơ cực, cơm ăn không đủ no thì sao dám nghĩ đến chuyện áo ấm. Phần con chỉ có 2 bộ đồ vạc-khách để thay nhau những lúc đến trường. Sư Ông thương, gần Tết đem bộ đồ Phật tử Sài Gòn mới dâng cúng đưa cô Tám Nghĩa và dặn: “…chỉnh rộng rộng một chút để năm sau chú mặc còn vừa… Thằng nhỏ ở tuổi đang phát triển”. Sau Tết năm ấy, con mặc bồ đồ mới đi học với một niềm vui khó tả. Tấm hình chụp con mặc bộ đồ ấy giờ vẫn còn ở bên con!

Ngày con xuống Phổ Bảo, theo lời dặn của cô Hai (má Thầy Đồng Văn), con quỳ đảnh lễ Sư Ông trong lúc Sư Ông đang cùng Phật tử cắt đám ruộng trước ngõ chùa. Lúc ấy Sư Ông chỉ nói bốn tiếng: “Tội nghiệp thằng nhỏ”… và rươm rướm nước mắt cầm tay con dắt vào chùa… Những ngày ở Phổ Bảo, Sư Ông dạy con từng cử chỉ, oai nghi tế hạnh mà một Sa Di miền Trung cần phải có: từ những gì trong quyển Hạ của “Sa Di Luật Nghi Yếu Lược” đến những hành vi nhỏ như cách lạy Phật, đánh từng tiếng chuông, cắm từng cây hương…

Hết Trung học, con vào Sài Gòn để tiếp tục việc học. Trước ngày rời quê hương Bình Định, Sư Ông viết một bức thư tay và dặn con khi vào chùa Giác Uyển nên đưa trực tiếp lá thư ấy cho ‘Bố’ Huệ Minh… Con không biết nội dung viết gì trong đó, nhưng với con bức thư ấy như một cái chiếu khán ưu tiên đặc biệt (priority visa) để con bắt đầu những năm tháng trưởng thành ở đất Sài Gòn.

Những năm tháng con theo học Đại học ở miền Nam, vì theo học ngành Báo chí nên con giao du với khá nhiều bạn bè, nhất là nhiều bạn nữ học cùng trường Đại học Xã hội & Nhân văn hay đến chùa cùng ôn bài vở. Sư Ông sợ con tiếp xúc nhiều với nữ giới ‘vướng trần duyên’, rời bỏ chí nguyện của người xuất gia, nên lần nào Sư Ông vào Sài Gòn cũng gọi con lên nhắc khéo câu: “…Ông thấy con dạo này ‘mất an ninh’ lắm rồi đó nghen…

Mùa hè năm 2000, sau khi được Đại học Delhi - Ấn Độ gởi thư thông báo nhập học, con về lại Phổ Bảo một tuần để sống gần Sư Ông và ôn lại thời làm điệu trước ngày rời xa quê hương tham học. Trước lúc vào lại Sài Gòn để sang Ấn Độ, con đảnh lễ cáo biệt Sư Ông để lên đường, Sư Ông dặn con nhiều lắm, nhưng điều làm con nhớ mãi là: “…Học gì cũng được nhưng cố gắng dùng sở học của mình để phụng sự Tam-Bảo, giáo hội. Nếu có cởi áo hoàn tục thì đừng về đây gặp Sư Ông. Sư Ông không trách chuyện hoàn tục, nhưng Sư Ông quen nhìn mấy đứa con từ nhỏ đến giờ trong chiếc áo của một người tu rồi. Nếu thấy tụi con mặc chiếc áo nào khác đau lòng lắm!”… Con ra tháp Tổ thắp hương, nhìn lên mấy cây xoài trong vườn chùa năm nào cũng trỗ bông thật nhiều nhưng “đậu quả” đâu có bao nhiêu… Sau này trên chuyến bay đến nước Mỹ, con không sao cầm được nước mắt khi chứng kiến ánh mắt của con gấu trắng Bắc cực buồn tênh, bất lực khi nhìn chú gấu con trưởng thành hững hờ xa dần gấu mẹ…trong cuốn phim về đời sống động vật hoang dã được chiếu trên chuyến bay ấy… Và hôm nay, nhìn lại những lớp đệ tử - pháp tôn của Phổ Bảo - Hưng Khánh ai còn, ai mất sau những lần “rơi rụng” theo những lớp sóng thời gian và thế cuộc… Nghe có chút gì đó chạnh lòng!

Tình thương của Sư Ông không chỉ dành cho Tăng chúng, cho con người; mà ngay cả những sinh vật hữu tình Sư Ông cũng hết mực thương yêu. Sư Ông gọi những con vật nuôi trong chùa theo thứ tự “cu anh”, “cu em”, “cu tý”… Vì với Sư Ông, con vật cũng có tánh linh của nó, cũng như con người sống cần có tình thương, chỉ có điều chúng ta không thể nghe và hiểu được ngôn ngữ của chúng. Nhớ hồi đó, năm nào Sư Ông cũng về Hưng Khánh đón Tết. Đến giao thừa, con và Dũng phụ trách phần chuông trống Bát-Nhã, thời gian còn lại hai đứa nhặt pháo rơi đốt và ném vào “cu bi, cu đen, cu mực”. “Ba đứa…bi, đen, mực” sợ pháo bỏ chùa xuống “trốn” ở nhà Bà Tám. Sư Ông đi tìm và dắt “ba đứa” về chùa rồi chỉ vào hai đứa con, cười nói: “Hai chú điệu ham vui này làm “ba đứa” sợ bỏ chùa phải không?”… Ngày Sư Ông sang Ấn Độ chiêm bái các Thánh tích Phật giáo, khi về đến New Delhi, Sư Ông gọi điện về chùa dặn các chú điệu chăm sóc “mấy đứa nhỏ: cu anh, cu em, cu tý…”. Những ngày ở Delhi, Sư Ông nghỉ tại phòng 429 ký túc xá Mansarowar. Một buổi sáng ba Ông cháu ngồi uống trà, Sư Ông kể lại giấc mơ đêm trước nhìn thấy “cu tý bay qua Ấn Độ, leo lên cái giường gỗ của ký túc xá liếm chân Sư Ông”. Mấy ngày sau đó, khi Sư thúc Đồng Văn đưa Sư Ông về đến Sài Gòn thì hay tin “cu tý” đã ‘ra đi’ vào chính cái hôm Sư Ông nằm mơ…sau hơn hai tuần bỏ ăn nằm trước cổng chùa đợi Sư Ông về.

Con rời xa quê hương Bình Định gần 18 năm, bôn ba nơi đất khách quê người tại hải ngoại gần một vòng của 12 con giáp; nên ít khi được hầu cận Sư Ông. Mỗi lần có dịp về lại Tổ Đình Phổ Bảo con đều nhận được những lời chỉ giáo chân tìnhđạo vị từ Sư Ông. Sư Ông vốn ít nói, nhưng lời nào phát xuất từ Sư Ông cũng phảng phất đạo tình và ưu tư cho cơ đồ Giáo hội, cho Đạo mạch Tông môn. Sư Ông ít phiên dịch, trước tác để viết lại những tác phẩm lưu truyền cho hậu thế, nhưng những lời đạo từ của Sư Ông trong những dịp an cư kiết hạ, tết Nguyên đán, trong các cuộc họp của Thiền phái Chúc Thánh… luôn là pháp ngữ - đạo ngôn, là khuôn vàng thước ngọc cho đàn hậu tấn của sơn môn noi theo. Và những lời nói ấy chỉ có thể xuất phát từ các bậc Tổ Đức Tôn Sư. Với con những lúc ấy Sư Ông là hiện thân của Bồ Tát, thể hiện đầy đủ oai phong của một bậc Đại sĩ giáng trần!

Lần cuối, con đảnh lễ Sư Ông trước khi trở lại Hoa Kỳ để tiếp tục cuộc hành trình của một người xuất gia, Sư Ông dạy: “Với Ông, cho dù có lấy được mười tấm bằng Tiến sĩ cũng không trân quý và lợi lạc bằng một bậc chân tu, mô phạm trong đời.” Lời dạy cuối cùng của Sư Ông có lẽ sẽ là phương châm sống cho con trong cuộc hành trình còn lại!

…Ngày tứ chúng Phật tử nơi quê nhà ngậm ngùi tiễn đưa nhục thân Sư Ông nhập bảo tháp, bên này bờ đại dương con bảo mấy anh thợ nghỉ sớm và dựng giúp con một bàn thờ tạm trong ngôi chánh điện đang thi công. Con ngồi đó trước di ảnh Sư Ông trong ngôi chánh điện còn dang dở của Phổ Hưng Đạo Tràng, niệm Phật suốt 4 giờ đồng hồ. Con niệm Phật bằng tất cả sự chí thành, chuyển tất cả những ngậm ngùi, thương nhớ thành năng lượng tâm linh hướng về Sư Ông trong giờ phút tiễn biệt Sư Ông về với đất mẹ ngàn thu. Trời Georgia hôm ấy mưa nặng hạt, những chuyến bay thay nhau vần vũ trên bầu trời Atlanta… Buồn tênh, bất lực!

…Hôm nay, ngoài kia những bông hoa Dogwood nở trắng cả đạo tràng, những cánh hoa rơi rụng phủ trắng khuôn viên Phổ Hưng. Hoa trắng tinh khôi hay hoa nhuốm màu tang trắng để nói lời chia ly với bậc Đại Sĩ Xuất Trần vừa tạ từ trần thế! Nắng và gió giữa khung trời Atlanta như cũng đang bàng hoàng, thổn thức tấu lên khúc biệt ly! Con ngồi đây với những chuỗi ký ức về Sư Ông - đấng Tôn Sư Thạc Đức vừa theo chư Tổ quảy dép về Tây - để viết lại những dòng tưởng niệm này với tất cả tâm thành kính. Ngưỡng nguyện giác linh Sư Ông thuỳ từ chứng giám!

Thành tâm kính nguyện giác linh Sư Ông:

Chu du Thế giới Ba ngàn an nhiên tự tại,

Dạo chơi Tây phương Tịnh Độ vô ngại thong dong!

Nhất Tâm Đảnh Lễ Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế Phổ Bảo - Hưng Khánh Đường Thượng Húy thượng THỊ hạ HUỆ, Tự HẠNH GIẢI, Hiệu BẢO AN Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh

 

Cung kính,

Con, Tỳ kheo THÍCH GIÁC HẠNH

Atlanta – Hoa Kỳ, mùa hoa nở năm Tân Mão – 2011

 

* Bài & ảnh => http://phatgiaodaichung.com/Bai2011/001tuongniemtonsu.htm

 

 



 

Chơn Tướng

Thích Như Điển

 

Lịch sử là một chuổi thời gian trải dài qua không gian vô tận của một kiếp nhân sinh. Thời gian vô cùngkhông gian vô tận ấy, con ngườichứng nhân của lịch sử. Nếu nói giáo dụcvấn đề nhân bản của con người, thì sự truyền đăng tục diệm trong cửa thiềnvấn đề sinh tử của Phật pháp.

Tôi biết Ngài từ năm 2003. Lúc ấy Ngài đang ở tuổi 90, một cái tuổi mà con người khó đạt được. Đó là Đại lão Hòa Thượng Thích Bảo An, Trưởng Môn Phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Bình Định. Khi Thầy tôi còn tại thế, Ngài hay vào thăm Bình Định để kết chặt tình môn phái Lâm Tế Chúc Thánh, thì Ngài và Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang là một trong những trụ cột của Phật giáo Bình Định thuở bấy giờ.

Năm 2003, với tôi là một năm quan trọng. Vì đây là một dấu mốc chuyển sang giai đoạn khác của công việc trụ trì Chùa Viên Giác tại Hannover Đức quốc, sau 25 năm đã thể hiện tại trời Tây và tôi đã quyết định trở về ngôi phương trượng. Do vậy, tôi đã cung thỉnh quý Ngài trong môn phái Chúc Thánh từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng đến Bình Định, Nha Trang, Sài Gòn… sang Đức để dự lễ nầy. Nhân cơ hội ấy, tôi đã gặp Ngài qua sự giới thiệu của thầy Đồng Văn thuở bấy giờ.

Ngài dáng người cao ráo, ăn nói hiền hòa. Thỉnh thoảng Ngài cho gọi đệ tử để sai bảo một vài công việc, nhưng đa phần thời gian còn lại Ngài hay nhớ và nghĩ về Bình Định, trong đó có mấy chú chó con tại chùa Phổ Bảo. Tôi không nghe Ngài nhắc về Thầy nào hay người nào của chùa mà chỉ thấy nhắc đến mấy con chó đang nuôi tại chùa. Quả thật, Ngài có một tình thương thiệt bao la vi diệu, không những đối với con người mà đối với mọi loại chúng sanh nữa.

Sau một tuần lễ Ngài ở tại chùa Viên Giác, Ngài bảo phải đổi vé máy bay để về lại Việt Nam, vì Ngài lúc nào cũng gọi tên của mấy con chó. Người già thường hay cô đơn và con chó hay trung thành với chủ. Do vậy mà con người nói chung, không mấy ai là ghét chó. Vì con chó ở bất cứ hoàn cảnh nào nó vẫn không nở bỏ chủ. Có thể chủ bỏ nó vào rừng hoang, chủ đem chó cho người khác; nhưng chó thì luôn vẫn tìm về với chủ.

Năm ấy, tôi đi đón Ngài tại phi trường Hannover và đón nhận hai tấm bảng sơn son thép vàng. Một của chùa Phổ Bảo tại Bình Định và một của chùa Giác Uyển tại Sài Gòn hiến tặng. Cả hai tấm ấy bây giờ vẫn còn tôn trí trên hai ngạch cửa ra vào tại Tổ Đường chùa Viên Giác. Nghe đâu cả hai tấm này đều do nghệ nhân Bình Định điêu khắc và nội dung bốn chữ của mỗi tấm là do Đức Đệ Tứ Tăng Thống, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang cho chữ. Đó là “Chúc Thánh Dư Hương” và “Chi Dinh Bổn Cố”. “Chúc Thánh Dư Hương” có nghĩa là hương thừa của Chúc Thánh. Chúng tôihậu duệ, con cháu của Tổ Minh Hải. Do vậy, Ngài cho bốn chữ nầy thật ý nghĩa vô cùng. Dầu cho ở Bình Định, Sài Gòn hay hải ngoại đi nữa, ở đâu chúng ta vẫn hưởng được cái hương thơm dư thừa ấy từ các vị Tổ Đức ngày xưa.

Bốn chữ thứ hai có nghĩa là “cành tốt, gốc chắc”. Nếu cái gốc phát xuất từ Hội An, Quảng Nam cách đây 300 năm lịch sử mà không vững vàng do Tổ Minh Hải khai sơn phá thạch thì ngày nay con cháu của Tổ là những ngọn ngành, không thể phát triển một cách tốt tươi, mạnh mẽ được. Người xưa thường bảo: “nhìn con biết mẹ” là vậy. Nay riêng Tông Lâm Tế Chúc Thánh đã vươn xa ra tận hải ngoại. Từ châu Á qua châu Úc, châu Âu, châu Mỹ và châu Phi. Đâu đâu cũng nghe đến pháp danh đứng đầu với các chữ: Ấn, Chơn, Như, Thị, Đồng; Chúc, Thánh, Thọ, Thiên, Cửu…

Nếu ai đó bảo rằng tình của người Tăng sĩ là tình Linh Sơn cốt nhục, thì đạo tình của những người cùng môn phái là tình của Tông môn pháp phái cũng chẳng sai tí nào. Vì lẽ Phật thì sống cách xa chúng ta quá nhiều, chỉ có những vị Tổ sáng lập ra môn phái để truyền thừanối dòng pháp của Đức Thế Tôn; so ra Tổ gần hơn Phật và vị Thầy thế độ cho ta lại gần hơn Tổ. Nếu không có những bậc Long Tượng của Thiền môn, hiện chơn tướng của những bậc xuất trần thượng sĩ thì không có ai dẫn ta vào nẻo Đạo. Do vậy mà theo giáo lý Phật giáo Kim Cang Thừa, người đệ tử xem vị Thầy Bổn Sư của mình còn gần gũi và quan trọng hơn cả Tổ và cả Phật nữa.

Ngày nay, cây, lá, cành và hoa quả đã đâm chồi nẩy lộc tại ngoại quốc. Con cháu của Tổ đã có mặt khắp nơi trên hoàn vũ nầy. Mỗi năm vào ngày mồng 7 tháng 11, dầu ở trong hoàn cảnh nào, Chư Tôn Đức trong Môn phái Chúc Thánh tại Úc châu, Mỹ châu cũng làm lễ kỵ Tổ tại một chùa nào đó trong vùng để tưởng nhớ về công ơn của Tổ đã truyền thừa.

Tại chùa Chúc Thánh ở Hội An, Quảng Nam mỗi năm đến ngày mồng 7 tháng 11 âm lịch cả hàng ngàn, hàng vạn Tăng Ni, Phật tử khắp nơi từ các tỉnh thành đến nơi thôn dã đều vân tập về đây để lễ Tổ. Lễ Tổ đã trở thành đại chúng hóa và Tổ là một nguồn mạch thiêng liêng để cho hàng hậu bối dìu dắt nhau đi vào lãnh vực của tâm linh cũng như sự truyền thừa.

Tổ từ Trung Hoa sang Việt Nam đã chẳng mang theo một vật gì ngoài ba y và một bình bát từ năm 1695. Đến năm 1697, ngôi am tranh Chúc Thánh đã hình thành. Nơi thảo am này, Tổ đã tọa thiền, dạy công án và cuốc đất, trồng khoai. Cuối đời Tổ xuất ra một dòng kệ, mà mãi cho đến ngày nay vẫn truyền chưa xong nửa bài kệ ấy.

Tổ đi, không mang chùa viện và đệ tử theo, mà Tổ để lại tất cả cho người Việt Nam, qua thế hệ thứ 2 là ngài Thiệt Dinh, khai sơn chùa Phước Lâm, ngài Pháp Hóa, Quảng Ngãi, ngài Pháp Chuyên, ngài Toàn Nhật tại Phú Yên Việt Nam… Từ đó, chúng ta cũng có thể định vị cho chỗ đứng của Phật Giáo Việt Nam ngày nay tại hải ngoại nầy. Trước và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, người Việt Nam đã bỏ nước ra đi vì nhiều lí do khác nhau; trong đó có lí do tự do tôn giáo đứng hàng đầu, mà thuở bấy giờ, tại quê hương Việt Nam không có. Do vậy, trên 400 ngôi chùa Việt đã được xây dựng tại các xứ Âu, Mỹ, Úc nầy. Rồi một mai đây, thế hệ thứ nhất, thứ nhì của người tỵ nạn sẽ nằm xuống, thì thế hệ thứ ba, thứ tư phải tiếp tục truyền thừa; nhưng mong rằng Phật giáo Việt Nam tại Đức sẽ hòa quyện và hội nhập vào văn hóa Đức để trở thành Phật giáo của người Đức. Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, Úc châu, Canada… cũng vậy. Nó phải là của người địa phương; chứ không phải mang nặng bản chất Việt Nam suốt thời gian sự truyền thừa được. Mặc dầu khởi thủy từ Việt Nam; nhưng Việt Nam Phật Giáo ấy phải hội nhập vào văn hóa sở tại với các nước Phật Giáo Âu, Mỹ nầy mới là điều đáng tán dương và cổ vũ.

Dẫu Tổ ngày nay không còn nữa và Môn phái Chúc Thánh cũng không còn là của người Trung Hoa nữa, mà là của Phật giáo Việt Nam. Do vậy, chúng ta không ngại ngần gì biến Phật GiáoMôn phái nầy trở thành của người dân sở tại. Nếu không được như vậy thì Chư Tổ có lẽ các Ngài chẳng hoan hỷ chút nào. Vì giáo lýTông phong ấy phải khế hợp cả khế cơ và khế lý, thì môn phái ấy mới tồn tại qua thời gian cùng năm tháng được.

Vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 của năm 2011 nầy, tại Tu viện Viên Đức ở miền Nam nước Đức, tôi được thầy Như Tịnh từ Việt Nam cho hay Sư ông Phổ Bảo, Thích Bảo An đã viên tịch và thọ 98 tuổi. Tôi không ngỡ ngàng, vì biết rằng một ngày nào đó bậc chơn nhân nầy hiện rõ chơn tướng của bậc đại trượng phu cũng sẽ ra đi. Do vậy, tôi đốt nhang cầu nguyện và báo tin nầy cho Hòa Thượng Thích Như Huệ, Trưởng môn phái Lâm Tế Chúc Thánh hải ngoại hay; lúc ấy Ngài đang ở tại Hamburg, thăm Ni viện Bảo Quang của Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm và Ngài đã dạy tôi, nhờ Thầy Như Tịnh lo vấn đề đi phúng điếu cũng như cúng dường. Tất cả đều như pháp.

Nay thì Ngài đã ra đi, tôi chẳng biết những chú chó nơi Tổ đình Phổ Bảo có còn nhớ đến Ngài chăng? Nhưng chắc rằng ở nơi cảnh giới giải thoát kia, bậc chơn nhơn có lẽ sẽ không quên hình ảnh của những con vật, mà ngày xưa nó đã nhiều lần nằm sát bên chân Ngài để sống trong tình thương yêu của chủ, vốn là chân tướng của một bậc đại trượng phu của cửa Thiền.

Nay thầy Giác Hạnh tại Hoa Kỳ muốn là kỷ yếu để tưởng niệm về cố Đại lão Hòa Thượng Thích Bảo An, tôi chỉ biết có bấy nhiêu việc về Ngài; nên chỉ xin viết những gì như mình đã biết về một con người luôn sống cho Đạo Pháp, không phân biệt ranh giới giữa người và vật trong suốt 98 năm đồng chơn thanh tịnh ấy.

Kính nguyện Giác linh Ngài thùy từ chứng giám.

Viết xong ngày 20/4/2011 tại chùa Phật Ân, Hoa Kỳ - Ngày tuyết đổ cuối mùa.

 

 


Source: quangduc.com


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8003)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35485)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19645)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11679)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23161)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13337)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5839)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10581)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10327)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10014)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20832)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6196)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6843)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8880)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6008)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18141)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6345)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6721)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6546)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12986)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5858)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7875)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10190)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7859)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9856)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9066)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5969)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24530)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36361)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7712)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11537)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10028)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5223)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5411)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9991)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7872)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9353)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8646)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46484)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6891)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12275)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5790)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14477)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12970)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12413)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14532)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12386)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10947)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9623)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16668)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8463)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5952)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9945)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6371)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11338)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7040)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46679)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13486)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8381)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6850)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9165)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6178)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6893)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17822)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18156)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15764)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6940)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31206)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9570)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7679)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21608)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34158)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33288)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14228)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35628)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13001)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15765)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13674)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33018)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26343)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41392)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40341)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20031)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33688)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29673)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33721)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18860)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22680)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22407)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48985)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11957)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11156)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22494)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17986)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15110)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22670)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15995)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13107)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19716)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12057)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant