Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Huyền thoại ít biết về đệ tử lừng danh của Đường Tam Tạng: Hoài Tố

10 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 11165)
Huyền thoại ít biết về đệ tử lừng danh của Đường Tam Tạng: Hoài Tố

Huyền thoại ít biết về đệ tử lừng danh của Đường Tam Tạng:

Hoài Tố



hoaitoNói tới đệ tử của Đường Tam Tạng, ắt hẳn nhiều người sẽ nghĩ tới một Tôn Ngộ Không tài phép, một Trư Bát Giới háu ăn hay một Sa Ngộ Tĩnh thâm trầm. Tuy nhiên, đó chỉ là những nhân vật huyền thoại do dân gian sáng tạo nên. Trong thực tế, Đường Tam Tạng có không ít đệ tử và nhiều người trong số họ cũng không kém phần nổi tiếng dù không có nhiều tài phép như ba vị đệ tử huyền thoại kia…

Trong số những đệ tử “người trần mắt thịt” của Đường Tam Tạng, có lẽ được nhắc tới nhiều nhất chính là nhà sư Biện Cơ với câu chuyện tình với cô công chúa phóng túng của triều đại nhà Đường. Biện Cơ là một trong những đệ tử trẻ nhất được Đường Tam Tạng chọn vào đội ngũ những người tham gia dịch những bộ kinh sách do ông đem về từ Thiên Trúc.

Thế nhưng, sau này, vì mối tình vượt ngoài giới luậtlễ giáo với công chúa Cao Dương, Biện Cơ đã bị vua Đường Thái Tông xử tử khi còn rất trẻ. Chính mối tình oan trái và bi kịch này khiến cái tên Biện Cơ được rất nhiều người biết tới.

Cũng có lẽ vì vậy, ít người biết rằng, trong số đệ tử của Đường Huyền Trang thì nổi tiếngtài năng nhất không phải là Biện Cơ mà là một người khác. Đó chính đạiHoài Tố - người đã can đảm tách khỏi cái bóng của Đường Tam Tạng để một trong những sư tổ sáng lập nên tông phái của riêng mình.

1. Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, quê gốc ở Nam Dương. Cha của Hoài Tố là Phạm Cường, từng làm tới chức Tả vũ vệ Trưởng sử của nhà Đường, vì vậy, Hoài Tố thực chất được sinh ra ở Tràng An. Là một đệ tử Phật môn nhưng Hoài Tố không hề “an phận thủ thường”. Cả cuộc đời ông, ông luôn cô độc trên một con đường riêng với sự lựa chọn hoàn toàn khác với những suy nghĩ thông thường.

Sinh ra trong một gia đình quan lại, thêm nữa, vào thời kỳ lúc bấy giờ, triều Đường vừa mới lập quốc, đời sống nhân dân đang bước vào giai đoạn thịnh vượng nhất, một người như Hoài Tố có thể đọc sách, đi thi và rồi theo cha mình làm quan. Nếu không có hứng thú với việc sách vở, Hoài Tố cũng có thể học kiếm thuật, thỏa mãn chí hành hiệp trượng nghĩa.

Tuy nhiên, Hoài Tố ngay từ khi sinh ra đã không có hứng thú với những chuyện đó, suốt ngày chỉ trầm tư mặc tưởng. Cho tới năm lên 10 tuổi, Hoài Tố quyết định xuất gia làm sư, bất chấp sự phản đối của mẹ ông. Tuy nhiên, cha ông lại cho đó là sự lựa chọn phù hợp nhất với ông và chọn một ngôi chùa gần kinh đô Tràng An để gửi gắm ông.

Tới năm Hoài Tố 20 tuổi, năm 645, cũng là năm nhà sư Đường Tam Tạng kết thúc cuộc hành trình “thỉnh kinh” kéo dài hơn 12 năm của mình và về tới Trường An. Sử sách chép về cuộc trở về của Đường Tam Tạng như một mốc son “không thể nào quên” của lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Hàng ngàn tín đồ đạo Phật biết Huyền Trang từ Thiên Trúc trở về, kéo ra đón tiếp chật cả những con phố lớn của kinh thành Trường An.

Chuyện kể rằng, vua Đường khi đó là Đường Thái Tông Lý Thế Dân biết chuyện, cho mời Huyền Trang đến gặp, khuyên ông nên hoàn tục, dùng tri thức mình học được ở Thiên Trúc làm quan giúp sức cho triều đình. Huyền Trang đã mỉm cười từ chối, nói mình xuất gia từ nhỏ, một lòng cầu Phật, không có ý định làm quan. Không đồng ý hoàn tục làm quan nhưng Đường Huyền Trang vẫn được Lý Thế Dân chấp nhận cung cấp tiền để ông tổ chức biên dịch những bộ kinh ông mang về từ Ấn Độ để thống nhất kinh sách Phật giáoTrung Quốc.

Nhận được sự công nhận của triều đình, được chính Hoàng đế giao cho việc tổ chức dịch kinh, Đường Huyền Trang trở thành vị đại sư quyền lực, uy tín và có sức ảnh hưởng nhất trong xã hội nhà Đường vào thời điểm ấy. Đây chính là lý do thôi thúc nhà sư trẻ ham học hỏi Hoài Tố tìm tới Đường Huyền Trang.

Vào thời điểm lúc bấy giờ, Hoài Tố chỉ là một nhà sư vô danh tiểu tốt, không được ai biết tới, trong khi Đường Huyền Trang là một đại sư rất quyền lực, không khác gì với một quốc sư nhà Đường vì vậy việc gặp và xin làm đệ tử của Đường Huyền Trang không phải là chuyện dễ dàng. Biết là khó nhưng Hoài Tố vẫn tìm cách gặp Đường Huyền Trang bằng được rồi một mực xin được theo ông học Pháp dù phải làm bất cứ việc gì.

Thấy một nhà sư trẻ lại có lòng nhiệt thành tu học khiến Đường Tam Tạng nhớ lại hình ảnh chính mình những năm còn trẻ, vì vậy, quyết định nhận Hoài Tố làm đệ tử và giúp việc mình trong công tác biên dịch kinh Phật. Tuy nhiên, chỉ mới theo Đường Huyền Trang được hai năm thì Hoài Tố lại quyết định ra đi.

Trên thực tế, sau khi xuất gia thành Phật, Hoài Tố hoàn toàn có thể an phận làm một nhà sư ngày ngày chăm chỉ tụng kinh niệm Phật, mong có ngày đắc đạo, đạt tới cõi bất sinh bất diệt. Hoặc giả, ông cũng có thể an phận với vai trò một đệ tử của Đường Tam Tạng, cùng với sư phụ của mình cống hiến cho sự nghiệp truyền bá và phát triển giáo pháp Đại thừa. Tuy nhiên, sự khác người của Hoài Tố chính là ở chỗ ấy.

Muốn có được vị trí tối cao vô thượng trong tăng đoàn, trở thành người đứng độc lập, thoát ra khỏi cái bóng quá lớn của sư phụ mình, hai năm sau khi theo Đường Tam Tạng, Hoài Tố quyết định không đi theo con đường của thầy mà chuyển sang tu theo dòng Luật tông - dòng tu đang mới nổi lên lúc bấy giờ. Vào lúc bấy giờ, quyết định của Hoài Tố được coi là ngờ nghệchĐường Tam Tạng đang là vị đại sưuy tín nhất. Tuy nhiên, những gì diễn ra sau đó lại chứng minh rằng lựa chọn của Hoài Tốhoàn toàn chính xác.

2. Trên thực tế thì Luật tông mới chỉ được Đạo Tuyên sáng lập chưa được bao lâu. Và ngoài Luật tông Nam Sơn của Đạo Tuyên, nhiều đại sư khác tu theo dòng này cũng sáng lập cho mình những tông phái riêng chẳng hạn như dòng Tương Bộ của Pháp Lệ ở chùa Nhật Quang, Tương Châu. Sự xuất hiện của Hoài Tố đã giúp các tông phái Luật tông thống nhất, đồng thời đưa Đạo Tuyên lên vị trí chính thống, trở thành sư tổ của dòng tu này. Tuy nhiên, đó là chuyện sau này.

Giáo pháp của Luật tông dựa trên Luật tạng của Pháp Tạng bộ, được dịch ra Hán văn lại với tên Tứ phần luật. Chủ trương của giáo pháp này là giữ giới luật một cách nghiêm ngặt. Những quy luật này bao gồm 250 quy định cho tăng và 348 cho ni giới. Những người tu theo dòng Luật tông phải tuân thủ nghiêm ngặt những giới luật đã được ghi chép trong Tứ phần luật không có bất cứ ngoại lệ nào.

Quyết định tu theo Luật tông, Hoài Tố đã kiên trì nỗ lực suốt 20 năm để tiếp thu tất cả những phần tinh túy nhất mà những thế hệ tiền nhiệm của mình như Đạo Tuyên và Pháp Lệ có được. Tuy nhiên, Hoài Tố không chỉ muốn dùng lại những gì mà Đạo TuyênPháp Lệ để lại, vì vậy, Hoài Tố quyết định vượt qua Đạo TuyênPháp Lệ, tự sáng tạo nên tư tưởng của riêng mình.

Hoài Tố sống trong căn tháp phía Đông (Đông Tháp) của chùa Thái Nguyên ở phía Tây thành Trường An, chính vì vậy, phái Luật tông mà ông sáng tạo nên được người ta gọi là Đông Tháp tông. Tư tưởng chủ đạo của Đông Tháp tông được Hoài Tố xây dựng ngay ở điểm khác biệt giữa dòng Nam Sơn của Đạo Tuyên và dòng Tương Bộ của Pháp Lệ.

Tuy nhiên, tư tưởng của Hoài Tố về việc tu học Luật tông bị những sư huynh đệ cùng chùa là Mãn ÝĐịnh Tân phản đối kịch liệt. Vì vậy, đương thời, người ta còn gọi dòng tu của Mãn ÝĐịnh Tân là Tây Tháp tông để phân biệt với Đông Tháp tông của Hoài Tố.

Cách suy nghĩ và phát ngôn của Hoài Tố đều rất khác người, vì vậy chủ trương của ông trong Đông Tháp tông từng gây chấn động một thời. Nhiều người chấp nhận, cho là phải, song nhiều người cũng phản đối. Sau này, Đông Tháp tông của Hoài Tố có được sự công nhận có lẽ là nhờ một người đệ tử rất nổi tiếng của ông tên là Pháp Thận.

Pháp Thận thời bấy giờ là một người rất được giới trí thức và quan lại nhà Đường trọng vọng. Và có lẽ chính vì Hoài Tốđệ tử là Pháp Thận mà vị tể tướng triều Đường lúc bấy giờ là Nguyên Tải đã hết sức ủng hộ Đông Tháp tông.

Vào thời điểm lúc bấy giờ, do các tông phái của Luật tông quá nhiều, lại thường xuyên mâu thuẫn với nhau, vì vậy, vào năm Đại Lịch thứ 13, năm 778, Nguyên Tải đã lệnh cho đại diện các tông phái tới chùa An Quốc để định đoạt “đúng sai”.

Kết quả, cuộc “hội đàm” này chỉ giúp các chi phái thống nhất được kinh sách chứ không thống nhất được về tổ chức. Tuy vậy, nhờ có sự ủng hộ của tể tướng Nguyên Tải từ trước nên Đông Tháp tông vẫn trở thành tông phái thắng thế, và dần trở thành tông phái chủ đạo. Chính vì lẽ ấy, ngày nay, người ta vẫn gọi Hoài Tốsư tổ thứ ba của dòng tu Luật tông.

Hoài Tố viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24499)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26011)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13775)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13180)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22064)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19078)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10005)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11916)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13045)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15196)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10542)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21829)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10136)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9851)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9751)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10194)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27438)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17845)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13198)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25168)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34677)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26767)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19071)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9008)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13090)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9012)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9456)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9142)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11798)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18526)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8786)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10670)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10959)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28006)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17880)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14414)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16366)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13208)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15540)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14698)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7603)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17054)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8398)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30724)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant