Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

01. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 5932)
01. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia

Cuộc đời Tôn giả A NẬU LÂU ĐÀ

(Anuruddha)

Nguyễn Điều

I- THỜI NIÊN THIẾU VÀ DUYÊN LÀNH XUẤT GIA

Phụ thân của Đức Phật, vua Tịnh Phạn (Sud-dhodana) có một em trai là hoàng tử Amitodana. Vị ngự đệ này sanh năm người con và nuôi dưỡng hai cháu là :

1- Mahànàma, nối dòng thừa truyền vương tộc Thích Ca (Sakya).

2- Anuruddha (A-nậu-lâu-đà), một Hoàng tử đẹp trai, mảnh khảnh, về sau tu đắc “Thiên nhãn thông” cao nhất.

3- Ànanda (A-nan-đà) cũng xuất gia, rồi làm thị giả Đức Phật.

4- Pandu, Hoàng tử nhút nhát, ít người biết tên.

5- Rohini, Công chúa bất hạnh, bị “phong lở” nên thường ẩn mặt.

6- Bhagu, Hoàng tử trầm lặng, làm việc gì cũng kiên nhẫn.

7- Kimbila, Hoàng tử khoẻ mạnh và vui tính.

(Hai Hoàng tử sau cùng là cháu).

Nhưng đặc biệt trong “Tôn Túc Kệ Ngôn” câu số 911 (Theragàtha( 11), tác giả là Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) đã tự mình diễn tả tóm tắt thời niên thiếu như sau :

“Tôi sanh ra trong hoàng cung ánh sáng,

Vương tộc Thích Ca, giòng họ của tôi.

Anuruddha là tên, cuộc sống vui cười,

Giữa nhung lụa và nhạc đời hầu hạ...”.

(N. Đ. thoát dịch ra văn vần)

Từ đó, chúng ta có thể mô tả rằng thuở thanh xuân, A-nậu-lâu-đà đã hưởng trọn một cảnh sống cao sang quyền quý, vây quanh bởi các lạc thú hấp dẫn nhất trần gian, trong kinh đô Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu) đầy phong cảnh hữu tình nằm gần chân Hy-mã-lạp-sơn (Himalaya), một ngọn núi hùng vĩ nhất thế giới.

Cuộc vui hằng ngày của Hoàng tử Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) đã làm cho ông quên mất khái niệm thời gian, không thấy rõ sự chóng tàn của các lạc thú nhục dục. Những bản nhạc du dương, và những niềm tin thần bí về sự vững chắc của giai cấp vua chúa (theo văn minh Bà-la-môn giáo) cũng làm cho ông chẳng bao giờ nghĩ đến ý nghĩa cùng mục đích của kiếp sống làm người. Hoàng tử Anuruddha chỉ biết say sưa với gái đẹp, nhạc hay, rượu ngon, ăn sung mặc sướng, rồi nhìn cuộc đời như một thiên đường !

Nhưng cũng chính vào lúc Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) đang say đắm trong ngũ trần khoái cảm đó, thì một “biến cố” đã làm cho đời sống hạnh kiểm của ông hoàn toàn chuyển hướng.

Số là người anh của Anuruddha, Hoàng tử Maha(na(ma một hôm nghĩ rằng : “Nhiều hoàng thân trong gia đình “Vương bá” (ám chỉ vua Tịnh Phạn {Suddhodan}) đã theo chân Đức Phật xuất gia. Trong khi đó, chưa có một người nào thuộc gia đình ông (tức giòng ngự đệ Amitodana) góp mặt trong đời sống cao thượng Tăng-già. Nhất là ngoài ông ra, gia đình còn đến bốn Hoàng tử thông minh khỏe mạnh”.

Mahanama tự xét mình thì cảm thấy chưa đủ tịnh duyên để trở thành một Sa-môn gương mẫu cho cả năm anh em, nên sau cùng ông đến bày tỏ ý nghĩ ấy với Anuruddha. Qua một hồi “tâm sự” Mahanama đã kết luận với em rằng :

– Này Anuruddha, giữa thân huynh và hiền đệ, một trong hai người nên xuất gia để gây phúc lành cho gia đình.

Thoạt đầu Anuruddha có vẻ không bằng lòng. Cậu viện cớ thân mình mảnh khảnh, bản chất thư sinh, không chịu nổi cuộc sống vất vả của một “khổ hạnh khất sĩ”.

Tuy lý do về thể xác, được Anuruddha nêu ra khá hiển nhiên, nhưng Mahanama vẫn kiên nhẫn phân tích để em thấy rằng : Làm người thừa tự cho vương tộc Sakya (Thích Ca) là một trách nhiệm còn nặng nề hơn nữa !

 Mahanama nói :

– Này Anuruddha ! Thừa tự một đại tộc không phải là chuyện đơn giản. Gánh nặng này anh không muốn để cho em phải chịu ! Làm một hoàng thân càng nhiều của cải ruộng đất thì đời sống càng vướng mắc, và càng bị bao vây ! Quanh năm suốt tháng, hết trông coi việc đồng áng, ruộng nương, thì đến việc quản đốc đất đai, trồng tỉa cây trái, thúc hối gia nhân bón phân tưới nước cho các hoa màu. Rồi mùa gặt hái lại đến. Số thu hoạch nếu dồi dào sẽ làm cho những đại tộc khác ganh ghét, tìm cách phá hoại. Còn nếu lợi tức thất bát thì chi phí đè nặng trên vai ! Một hoàng thân khó sống theo kiểu có nhiều xài nhiều, có ít xài ít, như các hàng dân dã.

Nhưng Anuruddha còn say mê trong sự hưởng thụ vật chất, chưa hiểu được ý nghĩa sâu xa của những lời phân tích đó, liền nói :

– Quản trị tài sản tuy có khó khăn, nguy hiểm thật, song mình lại được đền bù, còn đi tu thì không còn làm chủ bất cứ một cái gì hết !

 Mahanama bình tĩnh giải rõ hơn :

– Này Anuruddha ! Nhưng trong vai trò cai quản tài sản, trọn đời bị quay cuồng với những nghiệp trần, em sẽ không có thời giờ để mà hưởng thụ ! Vả nếu em lo hưởng thụ, không làm tròn các phận sự duy trì gia sản, thì của cải kia chẳng mấy chốc phải tiêu tan ! Các quý tộc khác nhân đó, sẽ gạt giòng họ Thích Ca ra ngoài giai cấp lãnh đạo.

– Này Anuruddha ! Chính ông cha của chúng ta, từ nhiều đời, cũng bị cột chặt trong cái vòng danh dự truyền kiếp đó, mà từ khi khôn lớn cho đến phút nhắm mắt, họ đã không thoát khỏi những xiềng xích dây chuyền là gìn giữ gia sản để giao lại cho con cháu. Và họ đã không nghĩ đến bản thân thụ hưởng, vì biết rằng sự thụ hưởng vốn dẫn đến phá sản, rồi không còn gì lưu lại cho đời sau.

– Này Anuruddha ! May mắn thay trong hoàng tộc Thích Ca (Sakya) đã có một người đại trí, tự bước ra khỏi cái vòng cương tỏa ấy để thực sự giải thoátĐức Phật Cồ Đàm. Và hiền đệ ngày nay lại có anh gánh vác lấy phiền nghiệp thế gian, tại sao em còn chần chờ ?

Anuruddha nghe mấy lời ấy, bèn kinh cảm nghĩ rằng : “Quả thật hiền huynh ta đã mô tả đúng đời sống của cha ông ta. Họ đã chỉ tỏ ra cho người ngoài tưởng là họ có uy quyền và hưởng thụ, nhưng thực tế bên trong, họ vốn nối tiếp nhau vướng chặt trong cái vòng danh vị thế gian, và chắc chắn sẽ bị luân hồi theo một chiều tư duy không thể tránh được”.

 Mahanama nhận thấy em mình có vẻ lĩnh hội chơn ý, liền ôn tồn từ giã, lui về tư thất.

Đêm hôm đó, Anuruddha suy nghĩ rất nhiều. Những thắc mắc về sự chết, và mục đích của kiếp người hiện tại, đã làm cho Hoàng tử cảm thấy đời sống thật vô nghĩa nếu không muốn nói là giả tạo.

Nghĩ đoạn, Anuruddha quyết định noi gương Đức Phật, tìm cách bẻ gãy cái vòng thế nghiệp lẩn quẩn triền miên.

Hoàng tử Anuruddha vội đến ra mắt thân mẫu để xin phép xuất gia thì bị bà từ chối, viện cớ rằng : “Bà không muốn sống xa bất cứ một đứa con nào hết !”.

Nhưng Anuruddha cứ năn nỉ hoài khiến thân mẫu đâm ra lúng túng. Sau cùng bà nêu điều kiện, nếu Anuruddha thuyết phục được Hoàng tử Bhaddiya, một người bạn thân vừa là viên phụ chính chờ nối ngôi Vương tộc Sakya, cùng đi tu với Anuruddha thì bà sẽ ưng thuận. Sở dĩ bà làm vậy bởi tin tưởng rằng : “Hoàng tử Bhaddiya khó dám bỏ rơi ngôi báu”. Nhờ đó bà sẽ cản được Anuraddha xuất gia theo Phật !

Nhưng bà đã lầm vì đánh giá sai tình bạn giữa hai Hoàng tử trẻ tuổi : Bhaddiya có thể rất thích ngôi vua, song tình bạn cậu dành cho Anurudha cũng không phải nhỏ, nhất là Bhaddiya chẳng muốn làm Anuruddha buồn lòng.

Bởi thế, khi Anuruddha đến gặp Bhaddiya và thố lộ rằng : “Sự giải thoát của tôi tùy thuộc hoàn toàn vào quyết định của bạn ! Nếu bạn cùng tôi noi gương Phật, thì tôi sẽ được hân hạnh thân mẫu cho xuất gia. Còn ngược lại, tôi phải chịu tiếp tục sống trong cuộc đời đầy sơn phết, giả tạo này !”.

Nghe mấy lời tâm sự tha thiết đó, Bhaddiya lập tức thốt, không suy nghĩ :

– Này Anuruddha ! Tình bạn giữa hai chúng ta xưa nay không bao giờ bất đồng ý kiến, hay ai phải tùy thuộc ai cả ! Hễ cái gì làm cho bạn sung sướng là tôi sẽ chấp thuận. Ngay cả việc xuất gia cũng...

Hoàng tử Bhaddiya bỗng dừng lại, không nói hết câu, vì cậu chợt cảm thấy có cái gì không ổn, nhất là câu chuyện vốn liên quan đến địa vị kế nghiệp của mình làm vua sau này.

Nhưng trước ánh mắt cầu khẩn và trước những lời lẽ chân thành, được lập đi lập lại của Anuruddha, nên thay vì Bhaddiya đủ can đảm bộc bạch thật lòng, chẳng hạn như : “Bạn có thể xuất gia một mình đi, tôi vô cùng hoan nghênh, không dám cản. Chứ tôi, tôi cần tính lại v.v...” thì cậu phải bỏ lửng câu nói ở đó, rồi ngồi im.

Hơn nữa, nét buồn trên khuôn mặt của Anuruddha mỗi lúc một rõ rệt, càng làm mềm lòng người bạn thân hơn. Cuối cùng, Hoàng tử Bhaddiya liền an ủi :

– Này Anuruddha ! Vâng, tôi sẽ cùng xuất gia tu Phật với bạn. Nhưng để cho mọi việc chuẩn bị vẹn toàn, bạn có thể chờ tôi khoảng bảy năm được không ?

Anuruddha lập tức tỏ vẻ thất vọng, than rằng :

– Bảy năm nữa thì thật... lâu quá ! Này Bhaddiya ! Nếu trong vòng bảy năm ấy, mà tuổi thọ của chúng ta hết, thì chúng ta sẽ mất duyên lành giải thoát và phải bị luân hồi.

Rồi chàng tiếp tục năn nỉ Bhaddiya.

Cứ như thế mà Anuruddha đã làm xiêu lòng người bạn, giảm dần sự chờ đợi xuống còn bảy ngày, cái thời gian tối thiểu để Bhaddiya có thể sắp đặt việc nhà, tìm người kế nghiệp.

Lúc bấy giờ, Anuruddha mới yên tâm ra về, bởi chàng biết rõ bạn mình là người luôn luôn tôn trọng lời hứa.

Quyết định này đã làm đảo lộn truyền thống thừa tự của hoàng tộc Thích Ca (Sakya) rất nhiều. Vì số vương tử sau đó noi gương Đức Phật sẽ không chỉ là Anuruddha và Bhaddiya, mà còn những người khác nữa.

Kết quả đã có sáu Hoàng tử giòng họ Thích Ca (Sakya) cùng nhau rời kinh đô Ca-tỳ-la-vệ tìm đến Đức Phật, mang theo một vương bộc (Sách khác gọi là người thợ hớt tóc trong cung vua) tên Upali.

Sáu hoàng tử đó là : Bhaddiya, Anuruddha, Ànanda, Bhagu, Kimbila và Devadatta. (theo Tôn Túc Kệ Ngôn các số 118, 155-156 và 271-274 : The-ragàthà numbers 118, 155-156, 271-274)

Và để tránh sự chú ý của các giới quý tộc cùng dân dã, có thể gây trở ngại cho công cuộc “lên đường” lịch sử, sáu vị Hoàng tử ấy đã tổ chức một đoàn tùy tùng có binh mã hộ tống, giống như thường lệ họ đi ngoạn cảnh hay đi săn bắn vậy.

Khi đã cách kinh đô một khoảng thật xa, sáu vị Hoàng tử bèn ra lệnh cho quân lính quay về, rồi họ tiến thẳng vào một địa phận lân cận, để cởi hết y phục sang trọng và đồ trang sức, giao cho vương bộc Upa(li, bảo rằng giá trị của tất cả những thứ này, có thể giúp cho ông sống mãn đời, mà không cần đến chủ cũ nữa.

Nhưng Upàli, trên đường về nhà chợt suy nghĩ : “Những hoàng thân trong vương tộc Thích Ca, ai xu hướng theo Đạo Phật thì thôi, còn ai chưa tin tưởng Phật giáo, lại rất đa nghi. Nếu họ hiểu lầm ta đã sát hại sáu vị Hoàng tử kia, để đoạt hết những tư trang này, họ chắc chắn sẽ giết ta. Tốt hơn ta hãy chạy theo sáu Hoàng tử ấy để chủ tớ chung đường, tu hành có nhau, và mạng sống của ta cũng được bảo đảm”.

Nghĩ đoạn, Upali liền cột tất cả y phụctư trang của sáu Hoàng tử thành một bó, treo lên cành cây, rồi nỗ lực đuổi theo sáu viên thiếu chủ.

Khi Upali bắt kịp họ, vội nói :

– Này các Hoàng tử ! Upali này không thể trở về kinh đô một mình với những tư trang vương giả mà không có mặt quý vị ! Các quan quân trong thành sẽ nghi lầm và gia tội hạ thần rất nặng nề ! Chi bằng các ngài hãy cho Upali này đi theo, để noi gương Đức Phật, sống đời Sa-môn phạm hạnh !

Những Hoàng tử giòng họ Thích Ca (Sakya) khi nghe mấy lời ấy, cũng nghĩ : “Upali quyết định nối gót chúng ta là một điều hợp lý. Vì con đường dẫn đến Đức Phật chắc chắn sẽ bình an, còn y trở về hoàng cung không chừng gặp phải nguy hiểm !”. Nghĩ đoạn họ bèn cho phép Upali vầy đoàn, rồi nhắm hướng Đức Phật cư ngụ thẳng tiến.

Khi tất cả đã ra mắt Đức Phật, và được Phật chấp thuận cho gia nhập Tăng chúng, thì các Hoàng tử chợt tư duy rằng : “Hoàng tộc Thích Ca xưa nay vốn rất tự phụ. Nếu các vương tử được thọ giới trước thường dân Upali, thì tánh xấu ngã mạn kia sẽ khó tẩy trừ. Vậy yêu cầu Đức Phật ban phép xuất gia đến vương bộc Upali trước, rồi sau đó mới thế phát cho sáu Hoàng tử giòng họ Thích Ca ! Như thế Tỳ-kheo Upali sẽ là vị Tăng sĩ niên trưởng để chúng ta phải kính trọng và làm bổn phận của những sư đệ”.

Tâm tưởng cao thượng ấy thúc đẩy sáu vị Hoàng tử thể hiện bằng hành động. Họ lần lượt thỉnh cầu Đức Phật :

Bạch Đức Thế Tôn ! Lâu nay Upali đã phục vụ hết lòng cho vương tộc Thích Ca, và để trả ơn cũng như để cho sự tu hành của chúng tôi được tiến triển tốt đẹp, ngưỡng mong Đức Thế Tôn cho phép Upali xuất gia trước.

Đức Phật thấu rõ điều suy nghĩ đáng khen của sáu hoàng thân, liền nhận lời. Kết quả, cộng đồng Tăng-già (San(gha) dưới sự hướng dẫn của Đức Phật sau đó đã tăng thêm bảy vị. Trong số ấy, vị niên trưởng chính là Tỳ-kheo Upali vậy ! (theo Tiểu Phẩm, chương VII, trong Tạng Luật : Vinaya, Cullavagga, Chương VII)

Và chỉ trong vòng một năm sau, hầu hết bảy Sa-môn ấy đã đạt được những thành tích tâm linh vượt bậc. Chẳng hạn như Đại đức Bhaddiya, vị thứ nhất đắc quả A-la-hán với Tam thông (Tevijja() có trí tuệ đặc biệt, loại trừ mọi phiền não một cách dễ dàng (Panõõnõa Vimutta). Tam thôngTúc mạng thông (biết hết tiền kiếp của mình), Thiên nhãn thông (thấy rõ mọi loài, vô hình lẫn hữu hình), và Lậu tận thông (tẩy sạch phiền não). Còn Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) thì đắc Thiên nhãn thông. A-nan-đà (Ànanda) đạt Thánh quả Nhập lưu (Sotapanno). Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) luyện thành nhiều quyền thuật siêu nhiên. Riêng Bhagu, Kimbila và Upàli thì về sau mới đắc quả A-la-hán. (Giống như A-nan-đà và A-nậu-lâu-đà). Chỉ có một điều đáng tiếc là Đề-bà-đạt-đa, vì luyện thành nhiều quyền lực siêu phàm, mà trở nên ỷ lại, rồi ngã mạntham lam lại phát sanh, đến nỗi ông trở nên tăm tối, đi vào con đường chống Phật, phải bị sa đọa vào địa ngục Vô gián.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1111)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan.
(Xem: 1390)
Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ (1945-2023)
(Xem: 1994)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 5784)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Hiền Như Tịnh Thất Trụ Trì, Pháp danh Tâm Hỷ, tự Thanh Diệu Pháp Ni Sư Chơn linh.
(Xem: 3604)
Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn vừa viên tịch tại Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
(Xem: 4834)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4606)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan - Chánh văn phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 6706)
Được tổ chức tại Chùa Phật Đà, San Diego, California, vào lúc 10:00am ngày 27/9/2020.
(Xem: 18249)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Húy Thượng Tâm Hạ Nhẫn, Tự Hành Từ, Hiệu Chí Tín Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng Liên đài chứng giám
(Xem: 3882)
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khai thuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
(Xem: 2965)
Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó
(Xem: 5598)
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền Viện Vạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 9099)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 2611)
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
(Xem: 6832)
Đại Lão HT Thích Quảng Độ viên tịch lúc 21 giờ 30 ngày 22 tháng 2 năm 2020, thượng thọ 93 tuổi, 73 hạ lạp
(Xem: 3237)
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
(Xem: 5909)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 3984)
Nhận thấy nhu cầu tìm hiểu những nhân vật, con người, đã và đang đóng góp công sức cho Phật giáo Việt Nam ngày nay...
(Xem: 5409)
Ôn thường canh cánh về Mẹ bên lòng khi còn sanh tiền. Trước khi “chết” Ôn về quê thăm Mẹ, lạy tình thương của Mẹ từ thuở ấu thơ.
(Xem: 18399)
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
(Xem: 6335)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) vừa viên tịch
(Xem: 5822)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Thành sinh ngày mùng 9 tháng 8 năm 1934, tại Xã Xuân Thọ, Quận Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, Việt Nam.
(Xem: 3520)
Bài Thuyết Trình: Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
(Xem: 2495)
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
(Xem: 13506)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 5376)
Chương trình tang lễ của HT Thích Quảng Thanh được tổ chức tại Chùa Bảo Quang từ ngày 14 đến 17/6/2019
(Xem: 2723)
Hòa Thượng Thích Thiện Định là vị Tổ khai sơn chùa Pháp Hoa tại Marseille, Pháp Quốc.
(Xem: 3989)
Ngài thế danh là Diệp Quang Tiền, Pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác (Đồng sư với Hòa thượng Thiện Châu ở bên Pháp), hiệu Trí Ấn Nhật Liên
(Xem: 4549)
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
(Xem: 3931)
Tây Tạng xưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giả siêu việt, mà ngài Lạt Ma tái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnh tiêu biểu.
(Xem: 2630)
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiện nhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
(Xem: 4368)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn
(Xem: 3334)
Sư cô Thích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
(Xem: 4699)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
(Xem: 7557)
Chương trình tang lễ được tổ chức từ ngày 23 đến 25 tháng 10 năm 2018 tại Chùa Diệu Quang, 3602 W 5th St, Santa Ana, CA 92703. Tel: (714)554-9588
(Xem: 3444)
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
(Xem: 3744)
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
(Xem: 3445)
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
(Xem: 7610)
Thay mặt chư tôn đức Tăng, Ni và quý Cư Sĩ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Sư Bà Tân Viên Tịch Cao Đăng Phật Quốc.
(Xem: 12553)
Lễ Nhập Quan: Vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 12 tháng 1 năm 2018 tại Peek Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683
(Xem: 16193)
Đức Trưởng lão Hòa Thượng thượng ĐỨC hạ CHƠN Viện chủ Tu Viện Quảng hương Già Lam, Sài Gòn vừa viên tịch lúc 03g40′ ngày 27/11/2017
(Xem: 4549)
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng
(Xem: 52631)
HT Thích Đức Niệm - Trụ trì Chùa Ưu Đàm, Tp. Marina, California viên tịch lúc 11:30AM ngày 20/10/2017...
(Xem: 8653)
Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông
(Xem: 16056)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tuyền (1938-2017) Khai Sơn Chùa Phật Giáo Việt Nam tại Nhật Bản
(Xem: 4062)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được tồn vinh đó là nhờ công đức sáng lập của Thầy.
(Xem: 3799)
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
(Xem: 8671)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ... TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 4015)
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.
(Xem: 12678)
Sư Bà đã viên tịch ngày 15/1/2017. Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 9am, Chủ Nhật, 22/01/2017; Lễ Trà Tỳ vào lúc 3pm, Thứ Hai, 23/01/2017
(Xem: 12433)
Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng.
(Xem: 17180)
Chúng con/tôi vừa nhận được tin: Thượng Tọa THÍCH ĐỨC TRÍ Trụ trì Chùa Tam Bảo Tulsa, Oklahoma vừa viên tịch...
(Xem: 7180)
Vào tháng 4 năm 1998, tôi trở về nhà ở Dharamsala, Ấn Độ, sau hành trình giảng dạy dài và khoản thời gian miệt mài viết lách tại Mông Cổ và phương Tây.
(Xem: 5877)
Đại lão HT Thích Thiện Bình đã thu thần viên tịch 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
(Xem: 7237)
Xuất gia năm 1960, thọ Sadi giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại Tổ đình Tường Vân, thọ cụ túc giới năm 1964 tại giới đàn Quảng Đức
(Xem: 8378)
Đức Vua Bhumibol Adulyadej, vị hoàng đế ở trên ngai vàng lâu nhất thế giới, vừa băng hà tại bệnh viện ở thủ đô Bangkok ngày 13-10-2016.
(Xem: 5326)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe...
(Xem: 6690)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật.
(Xem: 8711)
Trong cuộc phỏng vấn năm 1999, Richard Gere nói về những năm tháng tu tập của mình, sự cống hiến của anh cho Lão sư của mình là Ngài Đạt La Lạt Ma.
(Xem: 5411)
Chu Văn An (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật của Chu Văn An vốn là...
(Xem: 6447)
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng...
(Xem: 4706)
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 14106)
Lễ nhập Kim Quan lúc: 04 giờ chiều ngày Thứ Bảy: 25/6/2016; Lễ cung tống Kim Quan trà tỳ lúc: 08 giờ sáng ngày Thứ Năm: 30/06/2016
(Xem: 5615)
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt, toàn thân Ngài bất động điềm nhiên trong tư thế thiền định...
(Xem: 5746)
Bài thuyết trình cho Khóa An Cư Kiết Hạ tại Niệm Phật Đường Fremont, SanJose, từ ngày 13-23 tháng 6 năm 2016
(Xem: 9907)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
(Xem: 8744)
Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ Chứng minh Đạo sư GHPGVNTN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
(Xem: 7179)
Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng...
(Xem: 35101)
Lễ nhập kim quan lúc: 09:00am, ngày 12/3/2016. Lễ di quan lúc 10:00am ngày 15/3/2016
(Xem: 5523)
Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo HộiTrưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ.
(Xem: 10634)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Thích Hạnh Tuấn (1956-2015) Chùa Trúc Lâm Chicago, USA ấn hành 2015
(Xem: 13093)
Kể từ khi tổ Minh Hải–Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời truyền thừa...
(Xem: 7638)
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo.
(Xem: 17767)
HT Thích Tâm Thọ, Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên thế giới, Viện Chủ Chùa Giác Hoàng, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ
(Xem: 6607)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
(Xem: 19886)
HT Thích Hạnh Tuấn, Trú Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, đã viên tịch; Lễ Nhập Liệm vào ngày thứ 4, 4/11/2015; Lễ Trà Tỳ vào ngày Chủ Nhật, 8/11/2015
(Xem: 13401)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16186)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 26960)
Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi)
(Xem: 28790)
Trưởng lão Hòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
(Xem: 10834)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
(Xem: 7613)
Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa.
(Xem: 7062)
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa
(Xem: 10174)
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
(Xem: 10199)
Tranh vẽ Chân Dung HT Tuệ Sỹ của nhiều tác giả
(Xem: 8067)
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phậtcống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn Giả Phú Lâu Na.
(Xem: 8093)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
(Xem: 6867)
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
(Xem: 10020)
Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, viên tịch năm kỷ Mùi.
(Xem: 20782)
Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15238)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 8198)
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chí vững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
(Xem: 18699)
Vào lúc 15 giờ ngày 14/12/2014, tại An Tường tự viện, Oakland, California, Hoa Kỳ, các tự viện đã phối hợp cùng Môn đồ pháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang HT húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủ An Tường tự viện
(Xem: 16597)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 10885)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á.
(Xem: 7322)
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 7909)
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 14209)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant