Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

05. A-nậu-lâu-đà và nữ phái

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 4710)
05. A-nậu-lâu-đà và nữ phái

Cuộc đời Tôn giả A NẬU LÂU ĐÀ

(Anuruddha)

Nguyễn Điều

V- A NẬU LÂU ĐÀ VÀ NỮ PHÁI

Tuy hầu hết những mẫu chuyện của A-nậu-lâu-đà, được thuật lại trong Kinh điển, chỉ liên quan đến các đề tài Thiền pháp. Nhưng cũng có một số ít bản Kinh nói về thái độ, hay tư cách, của vị Thánh Tăng này, đối với nữ giới.

Chẳng hạn như một bản văn đã kể lại giai thoại sau đây :

Một lần nọ, A-nậu-lâu-đà ẩn tu đơn độc trong một ngôi rừng vắng. Lúc ấy, có một tiên nữ tên là Ja(lin(, từ cõi trời thứ ba mươi ba hiện xuống, cứ quanh quẩn bên ông.

Vị tiên nữ này vốn trong kiếp trước, khi tiền thân A-nậu-lâu-đà làm vua trời Đế Thích (Sakka), thì nàng chính là chánh cung Hoàng hậu. Vì tuổi thọ của loài người, so với tuổi thọ của cõi Trời rất ngắn, chỉ như chốc lát trên thiên giới mà thôi. Và nghiệp lực đưa “Thiên linh” đi đầu thai xuống trần gian cũng hằng làm cho “Thiên linh” ấy quên hết mọi việc kiếp trước, nên A-nậu-lâu-đà đã không lập tức nhận ra nàng là ai. Còn vị tiên nữ Jalin kia thì cứ tưởng “Đế Thích” chồng mình, mê ngao du địa giới bị đọa, để nàng đi tìm.

Kết quả, do tính luyến ái vợ chồng trên thiên cảnh trong lòng nàng chưa dứt, nên vị tiên nữ ấy, sau khi nhận ra A-nậu-lâu-đà là hậu thân của Đế Thích, bèn yêu cầu ông phát nguyện làm sao cho sớm hết tuổi thọ làm người, để thoát sanh lên cõi trời, sum họp với nàng.

Giọng yêu cầu của tiên nữ rất ngọt ngào tha thiết, hòa với nét đẹp của một đệ nhất hoa khôi thiên giới giáng trần, khiến cho bất cứ phàm nhân nào nghe cũng phải say đắm, huống chi “phàm nhân” ấy từ tiền kiếp, đã có duyên phu thê với nàng !

Thế nhưng A-nậu-lâu-đà thản nhiên trả lời bằng câu kệ rằng :

“Này tiên nữ, đừng mê lầm vướng mắc

Nơi Thiên cung còn tội báo nghiệp thân

Nàng tăm tối nên tình tiên ôm chặt

Phu thê ư, hay nhân quả xoay vần ?”.

Tuy nhiên, tiên nữ Jalin vẫn không hiểu A-nậu-lâu-đà nói gì, bèn dịu dàng phân bua, âm thanh ngọt ngào như tiếng đàn :

“Thiếp chẳng thấy trong cõi trần hạnh phúc,

Tại sao người không bỏ xác về tiên ?

Nơi đó Thiên vương cao cả uy quyền,

Đầy phép lạ và tuổi đời vô tận !”.

A-nậu-lâu-đà lại phải giảng giải bằng ba câu kệ ngôn nữa rằng :

“Nàng đã bị lậu vô minh che áng

Chẳng hiểu thông lời chơn thật Thánh nhơn

Pháp vô thường không phân biệt tiên, trần

Duy điều kiện hợp tan là định luật !

*

Bốn giai đoạn sanh, già, và bệnh, chết

Từ điểm “không”, tạo khổ, để hoàn “không”

“Thân kiến” phù du như kiếp nắng hồng

Buổi trưa nóng, buổi chiều tàn lạnh ngắt.

*

Nàng có biết đường luân hồi muôn mặt

Bần Tăng giờ, tâm quyết dứt đăng trình

Kiếp chót này tu, tận diệt duyên sinh,

Vượt ba cõi, chỉ vào trong “không” tịnh”.

(N. Đ. thoát dịch ra văn vần, theo Tạp A Hàm,

số 9/6 Samyutta Nikaya No 9/6).

Một lần khác, một đám tiên nữ được mệnh danh là “Thiên thần kiều diễm”, rủ nhau xuất hiện trước mặt A-nậu-lâu-đà. Sau khi đã chào kính vị Thiền Tăng, những tiên nữ này liền thay phiên nhau khoe khoang với A-nậu-lâu-đà rằng họ có nhiều khả năng tuyệt diệu. Chẳng hạn như họ có thể trong nháy mắt, thay đổi màu da, mái tóc. Hoặc họ có thể tự biến giọng nói thanh tao, ngọt ngào, theo ý muốn v.v... Nghĩa là họ mỗi khi ao ước hưởng thụ một khoái lạc gì, thì tức khắc họ sẽ được toại nguyện.

Để thử xem những điều các tiên nữ vừa khoe là thật hay giả, A-nậu-lâu-đà liền “nói” trong tâm tư rằng : “Vậy các nàng hãy hóa ra màu xanh đi !”. Thì lập tức họ hóa ra màu xanh. Rồi Thiền Tăng muốn thử lại một vài lần nữa, ông “đổi ý” bảo thầm với các tiên nữ chuyển ra màu đỏ, màu vàng, màu tím v.v... Thì họ cũng đều làm được. Đặc biệt hơn, là họ còn có “Tha tâm thông”, biết rõ những gì loài người đang suy nghĩ.

Chứng kiến sự thật ấy, Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà liền cảnh giác, để tâm hồn thanh tịnh, an trú vào thiền pháp “Phi tưởng”, không cho tâm mình tư duy bất cứ một chuyện gì cả, nên ông ngồi im.

Lúc bấy giờ, các tiên nữ cảm thấy vô cùng sung sướng (vì đã chứng minh được phép thuật của họ). Đoạn các tiên nữ vui thích, bắt đầu ca hát và khiêu vũ, xung quanh vị Thiền Tăng. Lời lẽ và điệu bộ vô cùng hấp dẫn, không kể là một phàm nhân, ngay cả các tiên nam trên cõi trời Dục giới nhìn thấy, cũng phải say đắm, mê mẩn !

Thế mà A-nậu-lâu-đà vẫn ngồi im, bất động. Vì ông đã an trú vững chắc Lục thức vào trong một cõi thiền. (Lục thứcNhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức). Nhất thời tuy Lục căn của ông vẫn bình thường, nhưng “Lục thức” không có mặt để tiếp xúc với “Lục trần”, nên ngoại cảnh chẳng thể nào quấy nhiễu tâm linh ông được. (Lục cănNhãn căn, nhĩ căn, tỹ căn, thiệt căn, thân căn, và ý căn. Lục trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp. Lục căn có thể ví như sáu cái cửa, và Lục trần là sáu đối tượng đập vào sáu cửa ấy).

Các tiên nữ, sau một hồi ca vũ, xét thấy A-nậu-lâu-đà không chú ý đến họ. Do đó, ông cũng chẳng chiêm ngưỡng gì sắc đẹp và pháp thuật kỳ diệu của họ, nên tất cả tự động biến mất, quay về Thiên giới. (theo Tạp A Hàm số 9/6 : Sam(yutta Nikàya 9/6).

Nếu chúng ta nhớ lại thời A-nậu-lâu-đà còn là một Hoàng tử đẹp trai, sống trong nhung lụa vương cung, hằng ngày được nuông chìu, hầu hạ bằng ăn sung, mặc sướng, gái đẹp và nhạc hay, thì chúng ta sẽ hiểu sâu xa hơn, cái khung cảnh tiên nữ ca vũ, mơn trớn xung quanh ông, có thể là một thách đố đối với Thiền Tăng. Chính những gì ngày xưa, A-nậu-lâu-đà đã say mê ưa thích, thì bây giờ ông lại dẹp bỏ. Phải chăng nhờ Phật giáo mà A-nậu-lâu-đà đã sớm được giải thoát ? Nếu không do thiện hạnh đã gieo trồng từ nhiều kiếp trước, ông có thể sẽ bị vướng mắc vào trong các lạc thú trên những cõi trời đầy quyền uyhạnh phúc (Ám chỉ các tầng trời từ thứ ba mươi ba trở lên).

A-nậu-lâu-đà sau đó nghĩ rằng sự xuất hiện cám dỗ của các tiên nữ vừa qua, đáng nhắc lại như một đề tài, để cho Đức Phật chỉ dạy. Vì vậy, khi gặp Phật, A-nậu-lâu-đà đã tường thuật đầy đủ câu chuyện, và đặt câu hỏi rằng :

– Bạch đức Bổn Sư ! Nhờ những đức hạnh gì, mà một người đàn bà có thể được sanh lên cái cõi Nữ thần đẹp nhất Thiên giới ?

A-nậu-lâu-đà nêu câu hỏi ấy, không phải vì lòng còn ưa thích sắc đẹp của các tiên nữ, mà vì tánh tò mò, muốn biết rõ nhân lành nào đã dẫn đến một kết quả đặc biệt như thế !

Đức Phật từ bi trả lời :

– Này A-nậu-lâu-đà ! Có tám phẩm hạnh khiến cho một nữ nhơn sẽ thoát sanh lên cõi trời mỹ sắc ấy là :

1- Người đàn bà sau khi lập gia đình, phải có nết hạnh chiều chuộng và thân ái đối với chồng.

2- Người nữ phải luôn luôn tỏ ra lịch sự, và hiếu khách đối với những thân nhân mà chồng mình quý mến, nhất là cha mẹ chồng và các hàng phạm hạnh đạo sĩ.

3- Người nữ phải chu toàn mọi việc gia đình một cách cẩn thận và siêng năng.

4- Người nữ phải biết chăm sóc và hướng dẫn kẻ ăn người ở trong nhà một cách có kế hoạch.

5- Người nữ phải có tánh không phung phí tài sản của chồng, và biết cách gìn giữ an toàn.

6- Người nữ không thích cờ bạc rượu chè, và làm mọi cách để tránh cho chồng khỏi mắc phải tật rượu chè cờ bạc, nguyên nhân làm cho chồng sạt nghiệp.

7- Người nữ nếu không “xuất gia” thì phải biết quy y, nương nhờ nơi Tam Bảo, và nhất là nghiêm giữ năm giới cấm.

8- Người nữ phải có lòng rộng lượng, thương người, cũng như biết chia sớt sự sống của mình cho những ai đói rách. (theo Tăng Chi A Hàm số 8/46 Anguttara Nikàya 8/46)

Ngoài hai câu chuyện nói trên, liên quan đến các tiên nữ hiện ra thân người trước mặt A-nậu-lâu-đà, còn có nhiều điển tích trong Kinh sách, thuật lại khả năng dùng “Thần nhãn” của ông, để nhìn thấy những “linh hồn nữ” thoát sanh lên Thiên giới, hay bị đọa xuống các cảnh khổ (nhất là cõi địa ngục) như thế nào.

Một lần nọ, A-nậu-lâu-đà cũng hỏi Phật, người nữ vì phạm trọng tội gì, mà họ phải sanh vào địa ngục, thì được Phật trả lời rằng :

– Này A-nậu-lâu-đà ! Có năm nguyên nhân làm cho một người đàn bà sẽ bị sa đọa là :

1- Thiếu niềm tin trong Chánh pháp.

2- Không biết hổ thẹn khi đã lỡ làm điều bất thiện.

3- Chẳng ghê sợ tội lỗi.

4- Người thường nóng giận.

5- Đầu óc không bình tĩnh, dễ tin nhảm.

– Này A-nậu-lâu-đà ! Xa hơn nữa, một người đàn bà, do năm tật xấu nói trên, có thể sanh ra nhiều ác tánh khác, như thù vặt, ganh tị, keo kiệt, lang chạ, vô luân lý, lười biếng, và đãng trí. Rồi khi hết tuổi thọ, họ chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục.

Nhưng ngược lại, này A-nậu-lâu-đà ! Nếu một người đàn bà biết tu sửa, phát triển những đức tánh đối trị như sau :

1- Vững niềm tin trong Chánh pháp.

2- Tự hổ thẹn với lỗi lầm của mình.

3- Ghê sợ tội lỗi.

4- Hòa dịu không nóng giận.

5- Tinh thần bình tĩnh sáng suốt.

Rồi từ đó các nết tốt của họ cũng hiện ra, là không chấp nhứt thù hằn, không ganh tị, không keo kiệt, trung thành với chồng, biết tôn trọng luân lý, siêng năng và chăm chỉ. Những đức tánh ấy sẽ giúp họ tiến hóa lên thiên đường. (theo Tạp A Hàm số 37/5-24 : Samyutta Nikàya 37/5-24)

Và nhân một cuộc “Pháp đàm” khác, A-nậu-lâu-đà lại thuật cho Đức Phật nghe rằng : Trong đời sống hằng ngày có nhiều người đàn bà bề ngoài rất nghiêm trang, cử chỉ cũng hòa dịu, thế mà khi họ hết tuổi thọ thì ông “thấy” họ lập tức sanh vào địa ngục, là bởi làm sao ?

Đức Phật trả lời :

– Này A-nậu-lâu-đà ! Có ba nết xấu rất nguy hiểm trong một người đàn bà, luôn luôn dắt dẫn họ đi thẳng vào con đường địa ngục là : Buổi sáng họ keo kiệt, buổi trưa ham muốn của cải danh vọng, và buổi tối đòi hỏi tình dục. (theo Tăng Chi A Hàm số 3/127 : Anguttara Nikàya 3/127).

Ngoài ra, những thuật sự nói về kiếp trước của A-nậu-lâu-đà cũng mô tả mối liên quan sâu xa của tiền thân ông với phái nữ. Tất cả đều chứng tỏ A-nậu-lâu-đà, xuyên qua những kiếp xa xưa, đã được phái nữ ngưỡng mộ rất nhiều. Và trong những tiền kiếp ấy, ông đã bị đầu thai làm thú vật chỉ có một lần :

Khi ấy, ông sanh làm chim câu rừng và bồ câu mái, bạn ông, đã bị một diều hâu sát hại. Để đối phó với nỗi khổ buồn thương, biệt ly bạn đồng hành, tiền thân làm chim câu trống của ông, đã quyết định nhịn đói cho đến khi vơi đi mọi cô độc sợ hãi.

Câu chuyện buồn thương và nhịn đói vì nhớ bạn của tiền thân làm chim (A-nậu-lâu-đà) đã được kể lại bằng những câu kệ sau đây :

“Trong kiếp ấy vì ham vui mà khổ

Tôi đã làm chim, cùng bạn bay xa

Gặp phải diều hâu, cái chết xóa nhòa

Một sanh mạng theo tử thần tan tác.

*

Sống thơ thẩn, nhớ bóng hình đã mất

Kiếp cô đơn, ngày tháng lạnh lùng trôi

Tuyệt thực cho vơi bất hạnh cuộc đời

Mong cái khổ đừng bao giờ trở lại...”.

(N. Đ. thoát dịch ra văn vần,

theo Túc Sanh Truyện số 490)

Còn một câu chuyện tái sanh, rồi vì đa tình mê sắc, đã gây oan nghiệt, cũng xin kể ra đây, để quý vị Phật tử thấy rằng A-nậu-lâu-đà trước khi trở thành Thánh nhơn, trong vô lượng kiếp luân hồi, ông cũng đã từng có tâm ác độc, như bao nhiêu chúng sanh tội lỗi khác :

Kiếp ấy, tiền thân A-nậu-lâu-đà sanh làm vua, trong khi săn bắn giữa rừng, ông gặp phải một người đàn bà cực đẹp, đẹp đến nỗi mà ông lập tức si tình.

Và để chiếm hữu giai nhân tuyệt sắc, nhà vua liền giương cung bắn vào chồng nàng, gây trọng thương. Nhưng người đàn bà đã không sợ sệt trước quyền uy của một vị vua, cũng như không mê mờ trước cảnh sống vương giả, mà nhà vua sẵn sàng cống hiến. Nàng mạnh dạn tố cáo sự ác độc của nhà vua, và tuyên bố quyết chết theo chồng, chứ không để tấm thân mình bị kẻ tàn bạo làm hoen ố. Kết quả, nhà vua đã thức tỉnh, rồi hối hận bỏ đi, để lại sau lưng một người đẹp, bên cạnh một nạn nhân của tánh háo sắc của mình. Cũng may là chồng người đàn bà ấy bị vết thương không ở chỗ tán mạng.

Và người đẹp trong “đoản kịch” nghiệt ngã ấy không ai khác hơn là tiền thân của Da-du-đà-la (Yasodhara), cùng chồng nàng là tiền thân đức Bồ-tát Sĩ-đạt-ta, người mà trong kiếp chót đã viên tròn Phật quả, đồng thời trở thành Bổn Sư của Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà. (theo Túc Sanh truyện số 485 : Jàtaka 485)

Xong chuyện gây oán, giờ xin thuật qua chuyện tạo ân : Một kiếp nọ, tiền thân A-nậu-lâu-đà sanh làm vua trời Đế Thích, rồi tìm cách tiếp độ tiền thân đức Bồ-tát, tái sanh làm một nhạc sĩ, thổi tiêu rất hay, tên là Guttila.

Lúc ấy, Đế Thích dụng tâm khuyến khích cho ba trăm nữ thần giáng trần để luân vũ, theo giọng tiêu trầm bổng, réo rắt của Guttila. Và họ đã hòa điệu nhạc vũ một cách liên hoan như thế đến ba lần. Qua lần thứ tư theo lời yêu cầu của toàn thể tiên nữ, Đế Thích đã mời và dùng thần thông đưa nhạc sĩ Guttila, lên thổi tiêu trên Thiên cảnh, do ông ngự trị.

Khi kết thúc âm nhạc, Guttila động tánh tò mò bèn hỏi các nữ thần, do phước báu nào mà họ được sanh lên cõi trời, thì được trả lời rằng : “Chúng tôi sở dĩ hưởng được hạnh phúc này, là nhờ kiếp trước thường xuyên cúng dường các bậc phạm hạnh, cũng như thường xuyên nghe Chánh pháp, thường xuyên bố thí đến kẻ nghèo, nhất là bố thí bằng sự kính trọng, không nóng giận và ngạo mạn”.

Chỉ nghe câu trả lời ấy, nhạc sĩ Guttila (tiền thân đức Bồ-tát) liền sanh lòng thỏa thích, và hạt giống “thiên tánh” tự nhiên sống lại trong tâm hồn ông. Từ đó về sau, tuy làm người, nhưng nhạc sĩ Guttila vẫn thỉnh thoảng lên thổi tiêu trên cõi trời. (theo Túc Sanh Truyện số 243 : Jàtaka 243)

Trở lại đời sống Sa-môn hiện tại của A-nậu-lâu-đà. Những đặc điểm nổi bật và những khả năng xuất chúng của ông, đã được đề cập rồi. Bây giờ xin nói qua một biến cốliên quan đến ông, mà từ đó Đức Phật đã chế ra một điều luật.

Số là A-nậu-lâu-đà và sư đệTôn giả A-nan-đà (Ànanda) (tức hai trong số những đại đệ tử thân cận nhất của Đức Phật), một hôm là duyên cớ để Đức Phật chế ra hai điều luật. Cả hai điều luật ấy đều áp dụng cho Tỳ-kheo Tăng trước phái nữ. Điều luật thứ nhất gọi là Pa(cittiya 83 (Ưng Đối Trị 83), và A-nan-đà là “chứng nhân” trong đề tài. Điều luật thứ hai do câu chuyện sau đây :

Một thời Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà có việc phải du hành xuyên qua vương quốc Kosala, hướng về thành Xá-vệ (Savatth). Vào một buổi tối mưa gió, ông đến ngôi làng kia, vì không tìm ra một tu viện, tịnh xá hay một nơi nào thích hợp cho các hàng đạo sĩ cư ngụ. Thiền Tăng bắt buộc phải xin tạm trú tại phòng ngoài của một quán trọ, do một người đàn bà xinh đẹp quản lý. A-nậu-lâu-đà yên trí rằng “Phòng ngoài là một khoảng cách biệt, Tăng sĩ có thể tá túc qua đêm được”.

Nhưng chẳng bao lâu sau, số người lỡ đường, xin vào ngủ trọ càng lúc càng đông, khiến cho nữ chủ nhân bỗng đổi ý mời Thiền Tăng vào nghỉ tận phòng trong. Bà viện cớ rằng ở đó yên tịnh, và giường chiếu cũng tươm tất hơn. A-nậu-lâu-đà, trước hoàn cảnh đông người như thế vẫn trầm tĩnh, yên lặng, tức là ông mặc nhiên chấp thuận, chẳng tìm hiểu “ẩn ý” của nữ chủ quán. Tuy nhiên, nữ chủ quán ấy trước khi mời Thiền Tăng vào nghỉ bên trong, bà đã quan sát thấy ông là một tu sĩ khôi ngô, tuấn tú, nên sanh lòng ái cảm.

Thế là, khi mọi người ai về giường nấy, nữ chủ nhân bèn vào tư phòng trang điểm, mình ướp đầy dầu thơm, và mang hết những nữ trang đẹp nhất. Đoạn bà bước vào phòng A-nậu-lâu-đà nhoẻn miệng cười, nói :

– Này đạo sĩ đáng kính ! Ngài vừa hiền hậu, vừa anh tuấn, vừa khỏe mạnh. Mới trông thấy ngài là tiện nữ đã yêu mến rồi. Thật là một đại hạnh cho tiện nữ, nếu được ngài xem như một hiền phụ.

A-nậu-lâu-đà nhứt thời ngồi im.

Nữ chủ quán thấy vậy tưởng lầm rằng sự “im lặng” ấy là chấp thuận. Bà lập tức mở hết đồ nữ trang, gom tất cả tiền bạc, đem để trước mặt A-nậu-lâu-đà, rồi tiếp :

– Xin quý nhân hãy nhận lãnh những lễ vật mọn này, cho thiếp được an lòng.

Nhưng A-nậu-lâu-đà vẫn ngồi yên. Vì lục căn của ông lúc đó đã được an trú vững chắc trong một cõi Thiền, nên ông chẳng hay biết gì cả.

Sự “im lặng” lần thứ hai càng làm cho người đàn bà khích động. Bà vội vàng cởi hết quần áo ngoài ra, để lộ một tấm thân diễm kiều khêu gợi, rồi bắt đầu khiêu vũ xung quanh chiếc giường A-nậu-lâu-đà.

Tuy nhiên, vị Sa-môn trước sau vẫn bất động. Ông như một tượng đá uy nghi trước mọi cám dỗ xác thịt, trước mọi vàng bạc hào nháng, và mê hoặc của cuộc đời.

Lần này nữ chủ quán bất chợt ngạc nhiên. Bà ngạc nhiên tột cùng vì nhận thấy không một cử chỉ lả lơi, mời mọc nào của bà được đối tượng chú ý ! Thật là một chuyện phi thường, bởi bà rõ ràng là một giai nhân tuyệt sắc, chứ không phải là kẻ xấu xí hèn mọn.

Từ ngạc nhiên người đàn bà ngưỡng mộ. Bất thần bà quỳ xuống trước mặt A-nậu-lâu-đà tán dương :

– Thật là thánh thiện ! Thật là cao thượng ! Này bậc đạo sĩ, ngài là một siêu nhân, một Thiên thánh không lệ thuộc giác quan, mới có tư cách như thế đối với tiện nữ ! Vì trên đời này từ trước tới nay, chỉ có những nam nhân giàu sang, quyền quý mang đầy của cảidanh vọng đến mọp bên chân của tiện nữ để xin xỏ tình yêu, chứ chưa bao giờ có một người thờ ơ, trước sự phủ phục của chính tiện nữ cả.

Sau đó, người nữ chủ nhân quán trọ bỗng tỏ ra hối hận. Bà chậm chạp mặc tất cả quần áo, cùng đồ nữ trang trở lại, rồi một lần nữa phủ phục dưới chân A-nậu-lâu-đà để xin Thiền Tăng tha thứ cho những hành động cám dỗ vừa qua.

Lúc bấy giờ, A-nậu-lâu-đà mới mở mắt ra và thanh tịnh xá lỗi cho người đàn bà lầm lạc. Đồng thời ông cũng khuyên bà nên sáng suốt chỉ huy lấy tâm tư mình. Vì bà còn trẻ và rất đẹp, nếu không cẩn thận, bà có thể bị khổ lụy bởi tình yêu trong tương lai...

Tất nhiên vở kịch tình cảm bồng bột được kết thúc ở đó, và người đàn bà đã trở về phòng mình một cách yên tâm “giác ngộ”.

Sáng hôm sau, mọi người đều thấy nữ chủ nhân quán trọ phong độ rất khiêm cung, nét mặt rất vui vẻ mang thức ăn điểm tâm đến cúng dường tận tay A-nậu-lâu-đà. Vị Thiền Tăng cũng thuyết cho nàng một bài pháp khiến cho nữ chủ nhân quán trọ bỗng chốc trở thành Phật tửtình nguyện suốt đời sống đúng theo lời Phật dạy.

A-nậu-lâu-đà sau đó tiếp tục cuộc hành trình. Ông đến tu viện Phật giáo ở Xá-vệ (Sa(vatth() vào một buổi chiều. Khi ông thành thật kể lại chuyện ấy cho một đồng đạo nghe, thì được Đức Phật kêu vào quở trách :

– Này A-nậu-lâu-đà ! Một Tỳ-kheo xuất gia theo Phật giáo không được ở đêm trong ngôi nhà do người nữ làm chủ, cũng không được ngủ chung phòng có nữ nhân ! Như Lai chế ra luật cấm này kể từ ngày hôm nay, và gọi đó là giới Ưng Đối Trị. (theo Tạng Luật phẩm Vibhaga, phần điều răn Pàcittiya đoạn số 6)

Thuật sự này chứng tỏ rằng Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà đã nhờ thiền pháp chỉ huy được tâm, mà ông tránh khỏi cảnh khổ làm nô lệ cho dục vọng. Sức mạnh an trụ của ông đã đánh thứccảm hóa được người đàn bà lửa dục đang bừng cháy, khiến đương sự tỉnh ngộ, ăn năn, trở về với Chánh pháp, rồi quy y Phật, quy y Phápquy y Tăng. Do đó, chúng ta có thể nói rằng Thiền pháp của A-nậu-lâu-đà, không những đem lại an vui cho chính ông, mà còn mang đến giác ngộ cho người khác. Người khác ở đây nếu căn cứ theo câu chuyện vừa kể là phái nữ vậy.

Tuy nhiên, khi Đức Phật chế ra điều luật nói trên, Ngài đã “quở trách” A-nậu-lâu-đà chỉ như một duyên cớ mà thôi, chứ không phải Phật chẳng tin vào đức hạnh của vị đại đệ tử này. Vì rằng, các phàm Tăng, tốt hơn là nên tránh trước, đừng để rơi vào một tình trạng cám dỗ không lối rút lui, như thế họ có thể gục ngã bởi dục vọng dễ dàng.

Nghĩa là Đức Thế Tôn, do lòng từ bi, Ngài đã không muốn cho chư đệ tử sơ cơ, rơi vào vòng nguy hiểm. Nếu đọc kỹ trong Kinh điển, chúng ta sẽ thấy rằng : Lúc sanh tiền Đức Phật thường khi đã ngăn ngừa cho những phàm Tăng một số “trợ duyên” gây tội, hơn là để cho họ tự biết tự tu.

Câu chuyện định tâm của Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà ở phương Đông, hơn 2500 năm trước, có nhiều điểm tương đồng với đức tánh của Thánh Bernard De Clairvaux trong sử Pháp. Vào đầu thế kỷ thứ XII, năm 1115 : Một hôm, vị ẩn sĩ trẻ tuổi này (Bernard De Clairvaux) dừng chân nghỉ đêm trong một quán trọ. Ông đã được chủ quán dành cho một chiếc băng nơi phòng khách, vì những chỗ khác đã có người chiếm trước. Thình lình nửa đêm, cô con gái của chủ quán, vốn tánh thích những nam nhân đẹp trai, tự mò đến tỏ tình. Nhưng Bernard De Clairvaux đã ôn hòa từ chối. Và vì trời rét, ông đã buộc lòng phải kéo lại tấm chăn bông, và nói với cô gái :

– Nếu cô chỉ cần một chỗ ngủ thì cái băng này có thể đủ cho hai người ! Nhưng nếu cô tìm một cái gì khác thì cô sẽ thất vọng.

Sự thản nhiên hoàn toàn trước cám dỗ xác thịt của Bernard De Clairvaux đã làm cho cô gái kính trọng, và hổ thẹn bỏ đi. Điểm giống nhau của hai vị Thánh, một ở phương Đông và một ở phương Tây, là họ tự chỉ huy được tâm hồn mình, rồi thuyết phục người khác bằng tinh thần và hạnh kiểm trong sạch, thánh thiện, chứ không phải bằng giảng đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7969)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35337)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19529)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11599)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23058)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13265)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5807)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10557)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10290)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 9955)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20755)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6174)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6819)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8841)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 5977)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18106)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6313)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6699)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6522)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12933)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5832)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7842)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10131)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7826)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9811)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9033)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5919)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24480)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36270)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7665)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11471)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 9979)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5202)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5396)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9936)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7831)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9325)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8580)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46363)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6869)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12165)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5759)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14400)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12910)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12345)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14406)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12318)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10918)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9585)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16611)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8432)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5927)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9891)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6344)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11282)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7001)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46565)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13458)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8326)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6833)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9129)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6160)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6868)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17741)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18052)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15686)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6911)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31102)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9542)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7654)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21512)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34082)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33184)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14178)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35546)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 12978)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15738)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13633)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 32913)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41300)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40235)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19998)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33617)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29642)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33697)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18792)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48911)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11935)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11138)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22403)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17930)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15066)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22615)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15966)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13081)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19656)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12037)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant