Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Tiền kiếp A-nậu-lâu-đà

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 5433)
07. Tiền kiếp A-nậu-lâu-đà

Cuộc đời Tôn giả A NẬU LÂU ĐÀ

(Anuruddha)

Nguyễn Điều

VII- TIỀN KIẾP A NẬU LÂU ĐÀ

Đa số tiền kiếp của Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà đều được ghi trong Túc Sanh Truyện (Jataka). Nhưng một ít cũng thấy xuất hiện trong Tôn Túc Kệ Ngôn (Theragatha). Chẳng hạn như chú giải câu kệ ngôn số 910 thuật rằng :

Thuở giáo pháp của Đức Phật quá khứ tên Kassapa (Ca-diếp), tiền thân A-nậu-lâu-đà sanh làm một người nghèo, song thường xuyên cúng dường các bậc Phạm hạnh. Nhằm khi Đức Phật đã viên tịch, người hằng ngày lo chăm sóc, nhang khói ngôi bảo tháp an trí Xá lợi Phật...

(Lời thêm của dịch giả : Phật quá khứ Ca-diếp (Kassapa) chỉ trùng tên với Thánh Tăng Đại Ca-diếp (Maha( Kassapa), đệ tử đứng đầu của Đức Phật Thích Ca trong giáo pháp hiện hành ! Chúng tôi xin lưu ý quý độc giả hai nhân vật lịch sử này, sống hai thời khác nhau, kẻo sự trùng tên có thể gây ra ngộ nhận).

Nhân một hôm, tiền thân A-nậu-lâu-đà tuy nghèo, nhưng đã nhịn ăn mua một lễ vật khá đắt tiền là “mỡ thơm” (rút ra từ sữa bò) để đốt đèn cúng dường ngôi Bảo tháp. Hạnh hy sinh cao quý ấy đã ăn sâu vào tiềm thức của tiền thân A-nậu-lâu-đà, nên kiếp này nhờ tu thiền đắc quả, ông chợt nhớ lại và tự thuật, qua bài kệ ngôn sau đây :

“Tôi nhớ rõ cái kiếp xưa nghèo ấy

Sanh nơi nào và tâm tánh làm sao.

Phật nhập diệt rồi, tôi chỉ ra vào,

Tháp Xá lợi để cúng dường, chăm sóc !”.

Còn liên quan đến những kiếp sống trên cõi trần, hay làm Thiên vương trên cõi trời, thì Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà đã nói trong ba “Tôn Túc Kệ Ngôn” các số 913, 914 và 915 rằng :

“Lên thiên cảnh, tôi từng là vua chúa,

Tuổi thọ dài không biết mấy triệu năm.

Đâu-suất-đà thiên, Đế Thích đã làm

phép lạ và chúng thần phủ phục.

*

Xuống trần thế quyền “Chuyển luân Thánh đức”

Lãnh thổ phú cường mở rộng bốn phương

Nam Thiệm Bộ châu, uy thế khôn lường,

Dùng Chánh pháp để an dân lạc nghiệp.

*

Lên với xuống : Trời, người... từng bảy kiếp.

Bảy kiếp trần gian, bảy kiếp thiên đường...

Mỗi kiếp đều ngồi ngôi báu đại vương.

Mười bốn kiếp, Túc mạng minh nhớ rõ !”.

(N. Đ. thoát dịch ra văn vần, theo

Theragatha (các câu 913, 914 và 915)

Còn tra cứu về phía Túc Sanh Truyện (Jataka), thì các học giả sẽ thấy có ít nhất là hai mươi ba thuật sự, kể lại tiền kiếp của A-nậu-lâu-đà. Hầu hết đều xác nhận rằng : Tiền thân A-nậu-lâu-đà đã nhiều lần làm vua trời Đế Thích (Sakka), nhất là các Túc Sanh Truyện số 194, 243, 347, 429, 430, 480, 494, 499, 537, 540, 541, 545, 547.

một lần, tiền thân A-nậu-lâu-đà sanh làm một vị sứ giả của vua trời Đế Thích, tên là Panõcasikha. Sứ giả ấy là một thiên thần rất giỏi về âm nhạc, nên luôn luôn được Đế Thích ưa chuộng.

Riêng bảy kiếp sanh làm người, như đã nói ở đoạn trước, thì tiền thân A-nậu-lâu-đà thường xuyên sống hạnh hiền đức. (theo các Túc Sanh Truyện số 423, 488, 509, 522 : Jàtaka 423, 488, 509, 522). Hai trong số bảy kiếp ấy, tiền thân A-nậu-lâu-đà và tiền thân đức Bồ-tát Sĩ-đạt-ta đã sanh làm đôi anh em. Còn năm kiếp còn lại thì có ba kiếp, tiền thân ông sanh làm vua (theo Jàtaka 485), một kiếp sanh làm giáo sĩ của triều đình (theo Jàtaka 515), và một kiếp sanh làm xa phu hoàng gia (theo Jàtaka 276).

Cảnh bị đọa làm thú, tiền thân A-nậu-lâu-đà chỉ bị một lần. Đó là câu chuyện con chim câu rừng mất bạn, rất thương nhớ, rồi tình nguyện nhịn đói, như đã ghi ở đoạn trước (theo Jàtaka 490). Như vậy, nếu kê khai sơ lược, dựa trên Túc Sanh Truyện (Jataka), thì tiền thân A-nậu-lâu-đà đã có mười lăm lần sanh vào Thiên chúng, bảy lần sanh làm người, và một lần sanh làm thú. Tổng cộng là hai mươi ba thuật sự vậy.

Điểm làm cho chúng ta chú ý ở đây là trong các tiền kiếp tái sanh làm vua trời (hay vua trần gian) ấy, tiền thân A-nậu-lâu-đà đã thường xuyên tỏ ra có nhiều sức mạnh thể xác, và được ngưỡng mộ tinh thần. Điều này chứng tỏ rằng tiền thân ông đã hưởng quả lành của thiện pháp, chứ không phải như vị vua trời trong thần thoại Hy Lạp Zeus bị chi phối bởi tình yêu và sự tranh ngôi trên thiên cung, cũng không như thần Jehovah (hay Yahavé), bậc thường “ứng lời” vào xác phàm được chọn lựa để tiết lộ “thiên ý” và nhân danh “thiên quyền” thưởng phạt con người, trong đạo Do TháiNhất Thần giáo.

Nhưng Đế Thích trong Túc Sanh Truyện đạo Phật thì hoàn toàn khác. Vị Thiên vương này là chúa tể của cõi trời thứ ba mươi ba, bậc có nhiều thiện tâm, và luôn luôn tìm cách che chở những ai bất hạnh.

Câu chuyện đức Đế Thích cứu nạn cho một vua lành trên thế gian, xin kể như sau :

Khi ấy, đức Bồ-tát sanh xuống cõi trần làm một vị vua nhân từ. Vua ra lệnh nghiêm cấm toàn dân không được giết súc vật để lấy máu tế lễ thần linh. Kết quả, có một hung thần ngu muội đã nổi giận bắt vị vua nhân đức ấy đem hành hình hút máu. Hoàng hậu thấy chồng sắp bị lâm nguy, bèn cầu khẩn Thiên vương Đế Thích. Bà cất cao giọng ngay thật, hướng lên chín từng mây than rằng :

“Thiên vương chúa tể cõi trời,

Hào quang người có sáng ngời hay không ?

Thấy chăng những giọt máu hồng

Của người vô tội vào trong hung thần ?

Nghiệp oan ma quỷ khôn phân

Càng gây càng vướng vào thân đọa đày !

Thiên vương biết rõ duyên này,

Xin mau bảo vệ vua dày thiện tâm !”...

(N. Đ. thoát dịch theo Ja(taka số 347)

Đế Thích nghe những lời cầu cứu ấy, liền lập tức hiện xuống thế gian, đánh đuổi hung thần chạy mất, rồi cứu mạng vị vua nhân từ, đem lại niềm tin bình an, và sự vui mừng cho toàn thể hoàng cung.

Về sau này, vua trời Đế Thích chính là A-nậu-lâu-đà, và vị vua nhân từ bị nạn cùng Hoàng hậu, chính là đức Thái tử Sĩ-đạt-ta và Công chúa Da-du-đà-la (Yasodhara).

Mặt khác, tiền thân A-nậu-lâu-đà tái sanh làm Đế Thích đã không những chỉ cứu mạng đức Bồ-tát (là tiền thân Thái tử Sĩ-đạt-ta) nhiều lần, mà ông còn che chở thanh danh, hay xuất hiện đưa đức Bồ-tát vượt qua những hoàn cảnh hiểm nghèo, không biết bao nhiêu lần nữa.

Ngoài ra, trong một số trường hợp, Đế Thích (tiền thân A-nậu-lâu-đà) còn muốn kích thích đức Bồ-tát (tiền thân Phật Thích Ca), để vị này tinh tấn trau giồi đức hạnh giải thoát hơn lên. Chẳng hạn như trong Túc Sanh Truyện cuối cùng, Đế Thích đã hóa thân thành một ông Bà-la-môn già yếu, để hỏi xin người vợ của đức Bồ-tát, hầu thử thách hạnh bố thí Ba-la-mật của vị này. (theo Jàtaka số 547).

Rồi trong một hoàn cảnh khác, Đế Thích đã thử lòng quyết tâm bố thí Ba-la-mật (Paramita) của đức Bồ-tát, bằng cách hỏi xin đôi mắt của ông (theo Jàtaka số 499).

Còn để thử hạnh kiên nhẫn và hòa dịu, Đế Thích đã bêu nhục, chê bai sự xấu xí của đức Bồ-tát khi kiếp nọ Bồ-tát sanh ra không được đẹp trai cho lắm. Trước sự chê xấu, bêu nhục ấy, đức Bồ-tát đã ôn hòa trả lời rằng :

– Tôi sở dĩ chịu quả bất hạnh này là vì trong kiếp trước tôi đã tối tăm làm nhiều điều ác độc ! Nhưng trong kiếp này, tôi đang tinh tấn trau giồi thân, khẩu, ý, cũng như khuyến khích, khen ngợi mọi người xung quanh làm như tôi, để kiếp sau khỏi bị nhiều quả khổ.

Kế đó, Đế Thích bảo với đức Bồ-tát rằng : Ông muốn ban cho đức Bồ-tát một điều ước; thì đức Bồ-tát lập tức xin được giải thoát khỏi các tật xấu như ác tâm, thù ghét, tham lam và khao khát. Xa hơn nữa, đức Bồ-tát (tiền thân Phật) còn tâm nguyện đừng bao giờ làm hại ai, và Ngài tự giảng giải rằng :

– Tất cả những điều mong ước ấy, nếu thành tựu là do công hạnhthiện nghiệp của một người thanh tịnh đã tạo, chứ không phải được một vua trời nào có thể ban cho cả” (theo Jàtaka 440 : Túc Sanh Truyện số 440).

Riêng trong hai Túc Sanh Truyện số 429 và 430, thì Đế Thích đã thử tánh ưa chuộng đời sống đạm bạc của đức Bồ-tát.

Nhóm thuật sự tiếp theo kể chuyện vua Đế Thích mời đức Bồ-tát lên cõi trời để chứng kiến những khung cảnh kỳ diệu, huyền bí trên Thiên giới. Loại thuật sự này đã được mô tả tượng trưng trong câu chuyện nhạc sĩ thổi tiêu tên Guttila rồi, xin khỏi dài dòng ở đây (theo Jàtaka số 243).

Riêng hai Túc Sanh Truyện các số 541 và 494, tiền thân Đức Phật đã sanh làm hai vị vua nhân từ tên là Nimi và Sadhina, thì tiền thân A-nậu-lâu-đà cũng tái sanh hai lần làm Đế Thích. Và ông (Đế Thích) đã mời và dùng thần thông đưa hai vị vua sống theo phạm hạnh ấy lên viếng cõi trời.

Bây giờ nói qua những tiền kiếp A-nậu-lâu-đà tái sanh làm người, chúng tôi xin chọn những mẩu chuyện sau đây :

Một kiếp nọ, tiền thân A-nậu-lâu-đà sanh làm quan Tư vấn Bà-la-môn trong triều, được nhà vua kính chuộng, và thường hỏi về những hành động lợi íchcông bằng mà một vị minh vương nên phối hợp để cai trị toàn dân cho được hiệu quả. Quan Tư vấn thành thực nói rằng :

– Hạ thần không thể trả lời câu hỏi ấy một cách thông suốt được. Nhưng hạ thần hứa sẽ cố gắng tìm ra một người đại trí, có thể giúp cho bệ hạ những ý kiến chính trị rất hay.

Rồi ông đi tìm đức Bồ-tát (tiền thân Phật) để cầu xin những pháp lành trị dân. (theo Túc Sanh Truyện số 515 : Jataka N. 515).

Còn khi tiền thân A-nậu-lâu-đà sanh làm viên xa phu hoàng gia, một lần vì muốn tránh trận mưa to sắp đổ xuống, xa phu đã dùng cây nhọn húc vào hông ngựa, để thúc chúng chạy thật nhanh. Về sau, mỗi khi đi ngang qua chỗ ấy, hai con tuấn mã tự động chạy thục mạng, in tuồng hoảng sợ một cái gì đó đã làm cho chúng đau điếng bên hông.

Hiểu được nguyên nhân gây ra kinh hoàng cho hai con ngựa quý, luôn luôn tận lực chạy theo lệnh của mình, viên xa phu bắt đầu hối hận, tự trách đã không hành động đúng theo tinh thần của kẻ kỵ mã. (theo Jàtaka số 276).

Nhiều sắc thái nổi bật và nhiều tư liệu khác nhau, trong toàn thể Túc Sanh Truyện nói về tiền thân A-nậu-lâu-đà, đã cho chúng ta thấy một số điểm quy nạp : Đó là đặc tính, là nghị lực, và các khía cạnh tâm lý chân thành của tiền thân ông, lúc nào cũng lo làm tròn bổn phận, duy trì sự bình an, và biết tìm ra nguyên nhân đau khổ của kẻ khác, kể từ đó có thể sửa lỗi, hay chia sẻ nỗi khổ với đối tượng. Các đặc tínhnghị lực ấy cũng chứng minh rằng : Sự thuần thục trong thiền định, cùng với sự chứng đắc Thượng thừa trong các loại thần thông của Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà, vốn bắt nguồn từ những công phu, hay những kinh nghiệm đã qua trong quá khứ, nhất là trong các tiền kiếp sanh làm vua trời Đế Thích, hay vua người, mà được gần gũi với tiền thân Phật (Bồ-tát).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17660)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24498)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26008)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13773)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13180)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22061)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19077)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10005)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11915)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13044)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15194)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10541)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21829)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10130)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9849)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9751)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10194)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27428)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17845)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13198)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25162)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34666)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26767)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19071)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9008)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13089)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9010)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9453)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9140)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11796)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18526)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8786)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10669)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10959)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28005)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17879)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14413)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16366)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13207)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15539)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14697)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7603)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17052)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8398)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30723)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant