Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. A-nậu-lâu-đà sau khi Phật nhập diệt

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 5201)
08. A-nậu-lâu-đà sau khi Phật nhập diệt

Cuộc đời Tôn giả A NẬU LÂU ĐÀ

(Anuruddha)

Nguyễn Điều

VIII- A NẬU LÂU ĐÀ SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT

Theo Kinh Đại Niết Bàn, trong bộ Trường A Hàm số 16 (Maha Parinibbana Sutta - Dgha Nikaya N. 16) thì Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà đã có mặt bên cạnh Bổn Sư, lúc Đức Phật nhập Niết-bàn.

Khi ấy, đấng Toàn giác biết rõ sự sắp lìa bỏ nhục thân này, Ngài bèn nhập định vi diệu vào các bậc thiền, nhất là các bậc thiền Hữu sắcVô sắc. Rồi Phật an trú vào trong một đại Thiền pháp, tên gọi là “Diệt thọ tưởng định” (Tiếng Pali gọi là Sanõnõa (Vedaniya Nirodha)...

Sa-môn hầu Phật là Tôn giả A-nan-đà đang buồn rầu, chợt quay hỏi Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà rằng :

– Bạch sư huynh ! Đức Thế Tôn đã nhập Niết-bàn chưa?”, thì được ông trả lời :

– Này A-nan-đà ! Sư huynh đã nhập định và dùng “Thiên nhãn” theo dõi tâm Phật thì được biết Thần quang của Đức Bổn Sư đang an trú trong Vô sắc thiền, bậc Diệt thọ tưởng định.

– Kính bạch sư huynh ! Sư huynh biết rõ đức Bổnviên tịch, diễn tiến như thế nào, xin sư huynh từ bi thông báo cho.

“Này hiền đệ A-nan-đà ! Để theo dõi Thần quang của Đức Thế Tôn, tệ huynh đã phải nhập hết thiền Hữu sắc (Rùpa Jhana) đến thiền Vô sắc (Arupa Jhana), vì trạng thái Phật tịch diệt không nằm trong phạm trù “Ngài muốn sống hay muốn chết”, mà sự “nhắm mắt kỳ diệu” ấy hoàn toàn nằm trong diễn tiến tự nhiên của thân nghiệp cuối cùng, trước khi Phật trở thành vô sanh bất tử ! Nghĩa là Phật không chối bỏ xác thân này, nếu những tế bào của sự sống còn hoạt động, đồng thời Ngài cũng không mắc dính, bám víu vào sự sống hữu hạn, phù du, và xoay vần ấy. Ngài an trú ở các bậc thiền, theo thứ tự từ thấp đến cao (Sơ thiền lên Tứ thiền), rồi từ cao đến thấp (Tứ thiền trở lại Sơ thiền). Hết lên đến xuống và hết xuống lại lên như vậy, cốt để giữ cho nhục thân được quân bình, vừa “chờ” cho những tế bào cuối cùng “chủ trương” sự sống, chấm dứt hoạt động.

xuyên qua sự thông báo từng giây phút ấy của A-nậu-lâu-đà, mà những đệ tử có mặt bên cạnh nhục thân đấng Toàn giác đã biết được khi nào Đức Phật thực sự viên tịch.

Lúc Đức Thế Tôn xả báo thân, vĩnh viễn an nghỉ Niết-bàn, thì trời Phạm Thiên (Brahma) và Đế Thích (Sakka), chủ tể cõi trời thứ ba mươi ba, đồng thanh cúng dường quả giải thoát của bậc Thiên Nhơn Sư, bằng những câu kệ, nói lên luật Vô thường, bất di bất dịch như sau :

“Tử sanh là luật Vô thường,

Có sanh, ắt tử, trời người không qua”.

Rồi người thứ ba tán dương sự nhập Niết-bàn linh diệu của Đức Phật là A-nậu-lâu-đà. Ông ứng khẩu ngâm mấy câu kệ rằng :

“Cao thượng thay là giờ nhập diệt,

Đấng Từ bi thanh khiết khôn lường.

Buồn, vui, sanh, tử... không còn,

Vượt ra tam giới, mười phương Niết-bàn”.

Tuy nhiên, những phàm Tăng, và một số Thánh nhơn bậc thấp (còn tái sanh lại tối đa bảy lần nữa), vì lòng ngưỡng mộ Đức Phật còn “chủng tử” ràng buộc, nên họ buồn khổ khóc than thảm thiết. Nhất là khi họ nghe Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà chính thức công bố sự viên tịch của Đức Phật.

Trước hoàn cảnh như vậy, Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà liền khuyên giải họ. Và bằng tâm từ bi, ông đã làm giảm lòng phiền muộn của các đồng đạo bằng cách lôi kéo họ chú ý đến sự có mặt (nhưng mắt phàm không nhìn thấy) của rất nhiều Thiên chúng tới lễ bái nhục thân Đức Phật lần cuối cùng. A-nậu-lâu-đà nói :

– Này chư huynh đệ ! Các Thiên chúng cũng đang buồn rầu, đau xót, tiếc thương, chẳng khác nào những phàm nhân, khi vừa mất một vị Phật. Nhưng hỡi chư Sa-môn huynh đệ ! Lúc Đức Bổn Sư còn sống, Ngài đã chẳng dạy cho chúng ta pháp Vô thường gây ra khổ não là gì ? Và giờ đây pháp ấy đang được chứng nghiệm trước mắt quý vị, tại sao quý vị không nhớ lại lời Bổn Sư để bình tâm niệm tưởng ân đức của bậc Giải thoát ?

Tiếp theo, Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà và Tôn giả A-nan-đà đã thức trọn đêm hôm ấy để cung hầu nhục thân Đức Phật. Sáng hôm sau, A-nậu-lâu-đà bèn yêu cầu A-nan-đà đi công bố tin Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn đến chư Phật tử trong các làng lân cận, nhất là trong thành phố Kusinara.

Thế là hầu hết dân chúng địa phương, kể cả những người chưa thấm nhuần Phật giáo, chỉ cảm kích đức hạnh của đấng Giải thoát mà thôi, đã tự động tập hợp, rồi dựng lên một lễ đài, và một giàn hỏa vô cùng trang nghiêm lộng lẫy, bằng những loại gỗ quý và trầm hương, để cử hành lễ Trà tỳ Đức Phật.

Có một điều lạ là khi tám người thanh niên lực lưỡng, đồng loạt nâng nhục thân Đức Phật đặt lên giàn hỏa, thì họ dù ráng sức đến đâu cũng không làm được. Bất chợt họ rùng mình kinh cảm, và lập tức đến hỏi Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà, vì sao nhục thân của Đức Thế Tôn lại có một trọng lượng lạ lùng như vậy. A-nậu-lâu-đà vốn biết rõ lý do, bèn nói cho họ biết rằng các hàng Thiên chúng ước muốn cho cuộc lễ hỏa táng được thực hiện dưới một thứ tự khác. Nghĩa là qua trung gian của Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà, chư Thiên đã đề nghị với toàn thể Tăng và tín đồ có mặt, một nghi thức lễ Trà tỳ đúng theo nguyện vọng của các vị vua trời.

Kinh chép : Khi chư Thiên vương “cầu nguyện” xong, thì nhục thân của Đức Phật bỗng trở thành nhẹ nhàng vô cùng. Mọi người chỉ cần để một ngón tay lên kim quan... là thân Phật cùng với mọi vật che chở tự động nâng lên cao, và di chuyển an ngọa ngay ngắn tại trung tâm giàn hỏa.

Nếu về phía Thiên chúng, A-nậu-lâu-đà đã tự động “tiếp xúc” với họ trong suốt cuộc lễ Trà tỳ, thì về phía phàm nhân, Tôn giả A-nan-đà cũng lo việc đôn đốc, cố vấn dân làng, để những vật liệu cúng dường, thiêu đốt nhục thân Đức Phật, được họ chọn lựa tinh khiết, kỹ càng hơn. Nói vắn tắt là hai vị Sa-môn huynh đệ này, mỗi người trách nhiệm một cảnh giới : Thiền Tăng A-nậu-lâu-đà giao cảm, nghinh đón các hàng Thiên chúng, và Tôn giả A-nan-đà tiếp xúc với cộng đồng phàm nhân (theo Trường A Hàm số 16 : Dìgha Nikàya N. 16).

Sau lễ Trà tỳ, hỏa táng nhục thân đấng Giải thoát, dưới sự chủ tọa của Đệ nhất đệ tử Phật, tức Thánh Tăng Đại Ca-diếp (Maha Kassapa), A-nậu-lâu-đà tuy ở địa vị một thánh Bất lai A-la-hán, và cũng là thân nhân gần nhất của Phật Tổ, nhưng ngài đã không tự nhận mình ở vai trò thừa kế Bổn Sư, lãnh đạo Tăng-già. Bởi vì khi sanh tiền, Đức Thế Tôn đã không di chúc một giáo quyền đến đệ tử nào hết.

(Quý đạo hữu nào muốn biết do kỳ duyên chi, Trưởng lão Đại Ca-diếp đã đến đúng lúc vào giờ chót, để chủ tọa lễ Trà tỳ nhục thân Đức Phật, xin hãy đọc cuốn Gương Lành Thánh Đại Ca Diếp, đã được dịch ra Việt ngữ và ấn tống.)

Ngay như Thánh Tăng Đại Ca-diếp là vị Thượng thủ có nhiều phẩm hạnh giống Đức Phật nhất, và ông còn được toàn thể Tăng chúng, cũng như tín đồ hiện diện, đồng tâm suy tôn lên ngôi vị chưởng môn, để thay Phật hướng dẫn Tăng chúng, mà ngài cũng thanh tịnh từ chối, huống chi là A-nậu-lâu-đà. Bởi cốt lõi Phật giáo là làm cho người Phật tử phải “độc lập”, tự mình hướng dẫn lấy mình, đi theo ánh sáng giải thoát của bậc Toàn giác, chứ không cần một “giáo nhiệm” nào điều khiển cả. (Ý nói không trông chờ tha lực).

Tuy nhiên, Trưởng lão Đại Ca-diếp cũng không phải không ý thức được trách nhiệm vô cùng quan trọng của mình trong thời “hậu Phật”. Nên vừa chứng minh xong lễ phân phối Xá lợi Phật cho các hàng vua chúa xây tháp tôn thờ, ngài liền dời gót hướng về phía Vương Xá thành, khởi xướng triệu tập Đại hội năm trăm Thánh nhơn Bất lai (A-la-hán), để nhắc lại tất cả những lời Phật dạy, hầu lưu truyền phúc âm đến các đời sau. Và đó là cuộc kết tập Kinh điển Phật giáo lần thứ nhứt.

Sách chép : Tôn giả A-nan-đà (đại đệ tử hầu cận Phật cho đến giây phút cuối cùng) lúc ấy chưa đắc quả A-la-hán, có thể bị Đại hội không mời dự, nên Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà đã thúc giục ông hãy tinh tấn vượt bực, để mau hội nhập vào Thánh giới Bất lai, mới tham gia đóng góp cuộc kết tập Phật ngôn được.

Kết quả, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, Tôn giả A-nan-đà, với sự quyết tâm tinh tấn, đã diệt tận tham sân si phiền não, đắc quả A-la-hán rồi dùng thần thông nương vào một tia sáng, bay vào tham dự hội nghị, trước sự hoan hỷ, tán dương của bốn trăm chín mươi chín vị Thánh nhơn A-la-hán.

Diễn tiến cuộc kết tập Kinh điển Phật giáo lần thứ nhất, dưới sự chủ tọa của Thánh Tăng Đại Ca-diếp, có thể trình bày tóm tắt như sau :

1- Tôn giả A-nan-đà tụng lại tất cả những bài pháp dài ngắn khác nhau, đủ loại chủ đề khuyến thiện và phân tích, rồi sau đó ghi chép, kết tập thành một “rổ”, gọi là Tạng Kinh (Sutta Pitaka).

2. Thánh Tăng Upali thuật hết những điều Luật, và điển tích mà Đức Thế Tôn đã căn cứ vào đó, để chế ra các phần giới cấm (như Tỳ-kheo giới, Sa-di giới, Tỳ-kheo-ni giới, Sa-di-ni giới cho các bậc xuất gia, và Thập giới, Bát giới hay Ngũ giới cho những hàng Cư sĩ. Toàn thể luật cấm được kết tập chép lại thành một “rổ”, gọi là Tạng Luật (Vinaya Pitaka).

Trong kỳ kết tập Kinh điển Phật giáo lần thứ nhất này, năm trăm vị A-la-hán chỉ thuật lại nguyên văn lời Phật nói, rồi lập thành hai Tạng là Tạng Kinh và Tạng Luật mà thôi ! Riêng “Tạng Luận” (Abhidhamma Pitaka) về sau xuất hiện, là nhờ các cuộc kết tập Kinh điển Phật giáo nối tiếp, đã phân tích và xếp loại những Phật ngôn trong Tạng Kinh ra thành hai phần : Phần thứ nhất nặng vần khuyến thiện, được tiếp tục gọi là Tạng Kinh (Sutta Pitaka). Còn phần thứ hai dành phân tích tâm thức, được gọi là Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma Pitaka), hay còn gọi là Tạng Luận.

Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy rằng : Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà đã từ bi khuyến khích và tiếp độ vị sư đệ của ông (ám chỉ Tôn giả A-nan-đà), ngay sau khi Đức Thế Tôn tịch diệt, để đưa vị Sa-môn này vào Thánh giới giải thoát, chấm dứt vòng sanh tử luân hồi.

Phật giáo được kết tập thành Tam tạng Kinh điểnhệ thống đó, đã lưu truyền cho đến ngày nay, xuyên qua hơn hai mươi lăm thế kỷ, và sẽ còn tiếp tục lưu truyền, gieo phúc lành cho chúng sanh, nhân loại, mãi đến thời mạt pháp, sau năm ngàn năm.

Theo Kinh Trường A Hàm thì trong Đại hội kết tập Kinh điển Phật giáo lần thứ nhất ấy, Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà đã hợp tác một cách tích cực với sư đệTôn giả A-nan-đà, để thuật lại toàn thể bộ Kinh Tăng Chi A Hàm (Anguttara Nikaya).

Sau cùng, liên quan đến sự viên tịch của A-nậu-lâu-đà, chúng tôi không tìm thấy một chỗ nào trong điển tích Phật giáo, nói rõ tuổi thọ, ngày giờ và địa điểm nhắm mắt chính xác của vị Thánh Tăng này, ngoại trừ những câu kết thúc một loạt hai chục bài kệ, do chính A-nậu-lâu-đà thốt ra. Những câu kết thúc các kệ ngôn ấy, có vẻ gián tiếp nói về nơi nhập diệt của ông. Chúng tôi xin mạn phép phỏng dịch ra văn vần Việt ngữ, để cống hiến chư vị Phật tử xa gần, vài bài kệ ngôn ấy như sau :

“Niềm tin Phật, bần Tăng không lay chuyển,

Và Phật ngôn cũng thực hiện chu toàn

Cái ngã làm người, trời, thú... không còn.

Vòng sanh tử trọn kiếp này là hết.

*

Vườn “Vệ-lữ” (1) miền “Va-chân” (2) sẽ chết,

Xác thân này trả cát bụi, thời gian...

Dưới bóng tre xanh, nơi nhập Niết-bàn.

Sạch phiền não, ấy tận cùng giải thóat”.

(Theo hai Tôn Túc Kệ Ngôn số

918, 919 : Theragatha( N. 918-919)

– Hai địa danh “Vệ-lữ”(1) và “Va-chân”(2) trên đây do dịch giả mạo muội “Việt hóa” do hai từ ngữ Pàli là “Veluva” và “Vajjian” để dễ diễn tả ra Kệ Ngôn. Vả lại, khi y cứ nơi bài kệ sau cùng này (do chính Thánh Tăng A-nậu-lâu-đà nói, thì ông đã nhập diệt trong vườn Veluva, thuộc xứ Vajjian đó.

Ngày nay, nếu chúng ta nhìn vấn đề theo khía cạnh lịch sử địa phương và so sánh cách thức tổ chức xã hội thời cổ Ấn Độ, thì vùng Vajjian nói trên là nơi ngày xưa phát xuất nền “Cộng hòa” đầu tiên trên thế giới. Vì thuở ấy lãnh thổ này đã được quản trị bởi một Hội đồng Bô lão, do toàn dân bầu, dưới sự chủ tọa của một niên trưởng, chứ quốc gia không “được” cai trị bởi một tiểu vương như những nơi khác.

Và với tấm lòng chân thành ngưỡng mộ vị Thánh TăngTHIÊN NHÃN THÔNG siêu đẳng, có trong các hàng cao đồ đại Thanh-văn, đệ tử của Đức Phật, dịch giả xin kết thúc tập “A-nậu-lâu-đà” độc đáo này.

Dịch xong tại Paris

Ngày 17 tháng 12 năm 1993

NGUYỄN ĐIỀU


Bài thơ

CÚNG DƯỜNG THÁNH ANURUDDHA

(A NẬU LÂU ĐÀ)

 

Thiền tâm như đá, thân như núi

Núi, đá khôn lay giữa gió ngàn

Thánh định đắc rồi, thông tất cả

Luân hồi dứt nghiệp khổ lang thang.

*

Nhiều kiếp Người làm vua Thiên giới

Lắm khi vương tước cõi trần gian

Hạnh phúc cũng từng hơn xã hội

Nhưng Người không nhiễm tật tham, sân.

*

Đời sống cuối cùng nhờ hướng thượng

Hành theo gương Phật, định tâm thần

Ánh sáng Bồ-đề từ vô lượng

Bừng lên vẹt hết bóng vô minh.

*

Người đã nhập vào trong Thánh giới

Nhãn căn đắc chứng một thần thông

Ba cõi, sáu đường “tâm chỉ gợi”

“Hiện ngay trước mắt”, diệu vô cùng !

*

Tuổi thọ hết rồi, Người viên tịch

Trong vườn tre mát, lá mông lung

“Thần nhãn Niết-bàn là ngọc bích

Đưa Người ra khỏi khổ xoay vòng.

*

Đệ tử giờ đây lòng thanh tịnh

Cúng dường Thiền Thánh tánh như không

Người đã là Sen qua sử tích

Hương thơm còn khắp cõi vô cùng.

(Nguyễn Điều cẩn đề)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17660)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24499)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26011)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13775)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13180)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22062)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19078)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10005)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11916)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13045)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15196)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10542)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21829)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10136)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9851)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9751)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10194)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27436)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17845)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13198)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25168)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34676)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26767)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19071)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9008)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13090)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9011)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9455)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9142)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11798)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18526)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8786)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10670)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10959)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28005)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17880)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14414)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16366)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13208)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15540)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14697)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7603)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17054)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8398)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30723)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant