Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

03. Ðoạn chót của cuộc đời Ngài trả món nợ trần cuối cùng

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 6384)
03. Ðoạn chót của cuộc đời Ngài trả món nợ trần cuối cùng

Cuộc đời tôn giả Xá Lợi Phất

Tác giả: Nyanaponika Thera - Dịch giả: Nguyễn Điều

PHẦN THỨ BA

ÐOẠN CHÓT CỦA CUỘC ÐỜI NGÀI TRẢ MÓN NỢ TRẦN CUỐI CÙNG

Bây giờ câu chuyện của chúng ta lại trùng vào lúc Ðức Bổn Sư sắp an nghỉ Niết-bàn (Pari-nibbàna).

Theo Kinh Mahà Parinibbàna, chương 2, thì khi ấy Ðức Thế Tôn đang kiết hạ tại làng Beluva gần thành Vesàli. Khi mùa Hạ chấm dứt, Phật đã rời nơi đó, cũng đi trên con đươøng cũ, trở về Jetavana Vihàra (Kỳ Viên tinh xá).

Phật về tới nơi, đức Trưởng lão Sàrìputta liền đến đảnh lễ Ðức Thế Tôn rồi lui lại vị trí nhật hành của mình. Nhưng hôm nay, không phải như thường lệ, ngài chợt có tác ý chẳng muốn làm việc gì khác hơn là hành thiền trọn ngày. Ðoạn ngài lấy chiếc tọa cụ bằng da của ngài ra, và phủi chân sạch sẽ ngồi lên bằng tư thế kiết già để nhập sâu vào trong A-la-hán Thánh định.

Ấy là dấu hiệu xác thân tứ đại của ngài đang tiến đến thời kỳ tan rã. Trong khi ngài sắp quyết định giờ an nghỉ vĩnh cửu của mình, ngài bỗng nhớ đến Ðức Phật và muốn biết xem Ðức Thế Tôn sẽ nhập diệt sau hay trước những đại đệ tử? Và ngài quán thấy rằng chính những đại đệ tử sẽ nhập diệt đầu tiên.

Sau đó, ngài bắt đầu quán xét thân thể của ngài và thấy rõ xác thân ô trược ấy chỉ chịu thêm được một tuần lễ nữa.

Rồi ngài tìm hiểu tiếp “Ta sẽ nhập diệt nơi nào đây? Kế ngài quán thấy: Ðức Ràhula sẽ nhập diệt cùng lúc với những vị Thiên Thánh trong từng trời thứ 33, và đức Trưởng lão Kondanõnõa sẽ nhập diệt tại hồ Chaddanta (vùng Hinsàlaya). Sau đó là đến phiên nhập diệt của mình”.

Khi những điều quán thấy như vậy và chấm dứt thì Ngài bỗng nhớ đến mẹ già, và một tác ý hiếu hạnh lại đến. Ngài nghĩ: “Mặc dù bà là mẹ của bảy vị A-la-hán(11) nhưng bà không tin tưởngđức Phật, đức Pháp và đức Tăng. Không biết hiện tại bà có chút thiện duyên nào hộ trợ để bà có thể đạt đến sư tin kính nơi Tam Bảo ấy hay không?

Rồi ngài dùng Tuệ nhãn xem xét thấy nhất thời bà đang đủ điều kiện để khai thị được Trực giác đạo (Abhisamaya), tức mở đầu cho những bước tiến hướng vào Thánh lưu. Ngài mừng rỡ vội xem xét tiếp thì thấy người có duyên để cứu độ bà lại chính là ngài chứ chẳng phải ai khác.

Vả lại, ngài tự nghĩ: “Mình đã bao phen dắt dẫn cả nhân loại lẫn chư Thiên nương ở Tam Bảo mà chứng được Thánh quả, chẳng lẽ mình không thể tẩy trừ nổi tư kiến sai lầm của chính mẹ mình hay sao?”.

Ðoạn ngài quyết định phải tiếp độ bà để đền đáp ơn sanh dưỡng ra ngài trong kiếp chót. Nhưng hiện tại sức khỏe của ngài quả rất kém, bởi ngài đang chuẩn bị để nhập Niết-bàn. Thời gian còn lại không cho phép ngài trì hưỡn thêm nữa.

Nhất tâm như vậy, ngài lập tức đến xin phép Ðức Bổn Sư để trở về làng cũ Nàlakà.

Ðồng thời ngài cũng đến gặp Ðại đức Cunda, yêu cầu người bào đệ này mời 500 vị Tỳ-kheo trong nhóm của ngài, chuẩn bị y bát để cùng đi Nàlakà. Và Ðại đức Cunda đã làm theo ý muốn ấy.

Do đó, chẳng mấy chốc tinh xá dưới sự hướng dẫn của Ðại đức Sàrìputta bỗng trở nên hoạt động. Chư Tăng thì mạnh ai nấy lo thu gọn chỗ ở, chuẩn bị hành lý. Phần ngài thì ngài dọn dẹp căn phòng của mình thật sạch sẽ, rồi ngài bước ra tận ngoài ngõ đứng nhìn vào nơi ngụ mà nghĩ rằng: “Ðây là cái nhìn cuối cùng của ta, vì ta chẳng bao giờ trở lại chỗ này nữa”. Ðoạn cùng với năm trăm vị Tỳ-kheo, Ðại đức Sàrìputta đến đảnh lễ Ðức Thế Tôn thêm lần nữa, và ngài nói:

– Bạch Ðức Thế Tôn. Xin Ngài cho phép đệ tử có đôi lời tán dương ân đức một vị Phật, vì thời gian nhập diệt của đệ tử đã đến. Ðệ tử sắp từ bỏ kiếp sống trần tục này.

Rồi ngài tiếp:

– Ôi một đấng Cứu thế! Một Thánh nhơn vĩ đại vô biên. Từ kiếp sống trầm luân, nhờ Ngài mà đệ tử đã được giải thoát. Ðệ tử sẽ không còn đi và về trong cõi tội lỗi nữa. Và đây là lời phụng bái sau cùng đến Ngài.

– Kiếp sống nhục thể của đệ tử đã ngăn lại rồi. Chỉ còn bảy hôm nữa, sau đó Ngũ uẩn này không kéo dài thêm được. Khi thân thể đã nằm xuống, gánh nặng luân hồi của đệ tử cũng không còn nữa.

– Ôi Ðức Bổn Sư! Thật là một hồng ân xin Ngài cho phép đệ tử ca ngợi ân đức của Ngài. Với lần sau cùng sắp nhập Niết-bàn này, đệ tử đã từ bỏ các ràng buộc hiện có để tương lai sẽ bất sanh bất tử.

Bây giờ, chúng ta hãy nhắc lại những lời dạy của Ðức Phật. Nếu Ðức Thế Tôn trả lời là “Như Lai cho phép ông nhập diệt” những kẻ hẹp hòi thù nghịch sẽ nói rằng: “Ngài tán đồng sự chết”. Và nếu Phật trả lời: “Ðừng nhập diệt vội” thì họ sẽ bảo Ngài mong muốn sự tiếp tục kiếp vô thường.

Do đó, Ðức Thế Tôn đã không nói gì theo hai cách trên. Nhưng Ngài lại hỏi:

– Này Sàrìputta! Nơi nào sẽ là chỗ nhập diệt của ông?

– Bạch Ðức Thế Tôn! Trong xứ Magadha, tại làng cũ gọi là Nàlakà, và chính căn phòng mà ngày xưa đệ tử được sanh ra sẽ là nơi nhập diệt của đệ tử.

Rồi Ðức Thế Tôn đề nghị:

– Này Sàrìputta! Hiện ông có đủ thời giờ chăng? Sau lần tiếp xúc này, những huynh đệ của ông trong hàng Tăng lữ sẽ không có dịp để thấy lại một Tỳ-kheo như ông nữa. Vậy ông nên ban bố cho họ một thời pháp cuối cùng đi.

Ðức Trưởng lão bèn thuyết một bài pháp, từ sự trình bày những uy lực mầu nhiệm của ngài cho tới mọi chiều sâu chơn lý tối thượng, rồi trở lại những tầm thường diễn tả các sự thật về cuộc đời. Cứ như vậy mà ngài đưa thính giả lên những pháp tận cùng sâu xa rồi lại cắt nghĩa thấp xuống đến những pháp tầm thường thấp thỏi. Ngài đã giảng giải Bảo pháp hết sức trực tiếp theo một phương pháp ước lệ thực tế. Và khi ngài kết thúc thời pháp, ngài đã quỳ mọp dưới chân Ðức Bổn Sư để tỏ lòng tôn kính. Khi ôm đôi chân chí tôn của Ðức Phật, Ngài đã nói:

Sở dĩ đệ tử lễ bái những bàn chân này là vì đệ tử đã được đầy đủ sự hoàn toàn của một bậc giác ngộ để được sống trong cái thời gian vĩnh cửu và trong một không gian bất hoại (Kalpas). Nguyện vọng duy nhất của đệ tử đã được thể hiện đầy đủ. Kể từ đây về sau, đệ tử sẽ không còn dịp để tiếp xúc hay gặp gỡ Ðức Thế Tôn nữa. Giờ là phút nghiêm trọng, vì nó là sự thông tri sau cùng giữa các bậc Toàn giác. Cõi Niết-bàn, một cảnh giới không tuổi thọ, không sanh tử, bình thản, tối thượng lạc, chẳng tạo sanh đau khổvô cùng ổn định. Nơi đó hàng trăm ngàn chư Phật đã bước chân vào, và rồi đây đệ tử cung sẽ nhập vào cảnh đó.

Sau cùng, đức Trưởng lão khải sám:

– Bạch Ðức Thế Tôn! Từ trước đến giờ nếu đệ tửhành vi hay lời nói nào làm Ngài không vừa ý, xin Ðức Bổn Sư hãy tha lỗi cho đệ tử vì giờ đây là điểm thời gianđệ tử sắp ra đi, không bao giờ trở lại.

Ðức Phật hiền từ trả lời:

– Này Sàrìputta! Không một hành vi hay lời nói nào của ông có thể làm cho Như Lai chẳng vừa ý hay quở trách ông được, bởi ông là một Tỳ-kheo uyên bác, có một sức thông minh vĩ đại, có một trí tuệ tiềm tàng sắc bén, nhanh nhẹn, sáng sủa và quảng đại (12)

Rồi Phật lại tiếp:

– Này Sàrìputta! Thật là cao thượng khi một đệ tử chân thành khải sám trước Tôn sư. Nhưng thật sự lỗi lầm dù chỉ một tiếng nói hay một hành vi vô ý của ông cũng không có nữa. Với lòng từ bi, Như Lai luôn luôn chúc lành đến ông. Bây giờ thì ông có thể lên đường, và hãy tưởng nhớ đến những gì hợp thời.

Ðến đây chúng ta thấy rằng vào những dịp hiếm có như đã nói. Khi Ðức Bổn Sư tỏ lời khiển trách các đại đệ tử của Ngài: Ðó không phải là Phật bất bình đối với Ðại đức Sàrìputta về bất cứ chuyện gì. Nhưng ấy chính là Ngài muốn vạch rõ cho đệ tử ưu tú của Ngài thêm con đường nhận định bổn phận, hoặc thêm phương pháp quán sát một vấn đề.

Ngay sau khi Ðức Thế Tôn cho phép, và Ðại đức Sàrìputta đã lìa khỏi đôi bàn chân của Ðức Phật theo thể thức tôn kính mà Ngài đã thường làm, thì lúc ấy đại địa cầu đã làm cho nước trong năm châu bốn biển dao động như chứng tỏ rằng: “Mặc dù tôi đã chịu đựng được những dãy núi điệp trùng thắt lên thân thể tôi, như ngọn Meru hùng vĩ, như thành sơn cao ngất Cakkavàla và Himavantu (Hy-mã-lạp-sơn) chẳng hạn tôi cũng không chịu nổi ngày hôm nay, một ngày mà giới đức từ bi vô lượng đã được quy tụ”.

Tiếp theo đó, bỗng có một tiếng sấm đầy uy vũ vang lên trên tất cả các từng trời, và không biết một dãy mây khổng lồ từ đâu hiện ra che áng hầu hết không gian, rồi một trận mưa lịch sử đã đổ ào trên mặt đất.

Ðức Thế Tôn lại nghĩ: “Giờ đây Ta sắp cho phép một vị Chưởng pháp như Sàrìputta khởi hành”. Rồi Ngài rời khỏi chỗ ngồi của mình đến một căn phòng đầy hương thơm và đứng trên một tấm thảm ngọc.

Ðại đức Sàrìputta đi xung quanh căn phòng ấy đến ba lần giữ bên mặt của ngài về hướng Ðức Phật và làm những động tác tôn kính tại bốn nơi khác nhau. Khi ấy, thì một ý nghĩ phát lên trong trí óc ngài: “Một thời gian vô lượng và một không gian bất tận không biết đã trải qua bằng bao trăm ngàn đại kiếp (Kalpas) chính là giờ phút này. Khi ta mọp xuống dưới chân Ðức Phật Anomadassi và phát đại nguyện được gặp vị Thích Ca Như Lai. Nguyện vọng ấy đã được thể hiện và ta đã gặp Ngài. Lần gặp gỡ đầu tiên ta đã được Ngài thọ ký. Giờ đây là lần chiêm ngưỡng sau chót của ta đối với Ngài vì trong tương lai sẽ chẳng bao giờ có nữa”.

Sau cùng, bằng một cử chỉ chắp tay đưa lên cao đầy tôn kính, Ðại đức Sàrìputta đã dời gót khởi hành, mắt nhìn về hướng Ðức Phật với một tư thế bái biệt. Ngài bước đi thụt lùi như vậy cho đến khi nào không còn trông thấy Ðức Thế Tôn nữa. Và do đó, lại một lần nữa đại địa cầu cũng không thể chịu được, đã rung động làm cho nước bốn bể năm châu nổi sóng.

Kế đó, Ðức Phật bèn nhắn nhủ giữa những hàng Tăng chúng: “Này chư Tỳ-kheo! Các ông hãy đi đi! Ði tiễn chân vị Ðại sư huynh của mình”.

Phật vừa nói xong thì cả bốn nhóm Tăng lữ có mặt lập tức nối gót Ðại đức Sàrìputta ra khỏi Kỳ Viên tinh xá, để lại một mình Phật ở đó.

Riêng Ðại đức Ananda là người sẵn sàng đưa tiễn đầu tiên, và là người tỏ vẻ u buồn nhiều nhất. Ngài không ngớt thốt ra những lời thống thiết. (Như đã nói ở hai trang 44-45).

Dân chúng sống trong thành Xá-vệ cũng vậy khi nghe tin này, họ đồng kéo nhau ra khỏi nhà tiễn đưa Ðại đức Sàrìputta như một dòng suối dài bất tuyệt. Họ còn mang cả những vật thơm và tràng hoa để tỏ dấu chịu tang nữa. Cả đoàn dân chúng đi tiễn chân đức Trưởng lão, người nào cũng tỏ vẻ thổn thứcrơi lệ.

Ðại đức Sàrìputta sau đó đã khuyên nhủ đám đông dân chúng rằng:

– Hỡi quý Phật tử! Ðây là con đường mà không ai tránh khỏi. Rồi ngài yêu cầu họ trở về.

Còn đối với chư Tỳ-kheo không cùng đi với Ngài đến Nàlakà, Ngài lại nhắc nhở:

– Xin các vị hãy trở về. Ðiều bần đạo mong muốn nhất là từ nay về sau mong các vị đừng dễ duôi trong việc chăm sóc Ðức Phật.

Cứ như thế, Ngài đã khuyến dụ cả Tăng lẫn tục lần lượt trở lui. Sau cùng, chỉ còn lại nhóm đệ tử riêng của Ngài mới cùng Ngài lên đường theo ý định. Tuy nhiên, trong số đó vẫn còn những Tăng sĩ đang thổn thức, vừa đi vừa kể lể:

– Trước đây, vị Ðại đức của chúng ta dù có đi bao nhiêu chuyến hành trình rồi cũng trở về, nhưng lần này thì chuyến đi lại là lần ra đi không bao giờ trở lại.

Ðức Trưởng lão nghe được liền khuyên họ rằng:

– Này các huynh đệ! Các vị hãy giữ tâm thanh tịnh, vì sự luyến tiếc bất cứ hình thức nào của thế gian cũng đều vô nghĩa mà chỉ tạo thêm cho mình cái khổ.

Dù sức đang yếu nhưng ngài đã phải giảng giải cho họ nghe thật nhiều lần họ mới bình tâm.

Suốt cuộc hành trình, Ðại đức Sàrìputta đều nghỉ lại một đêm ở bất cứ nơi nào có người nghinh đón. Và như vậy trong một tuần lễ, ngài đã ban rải ân huệ giải thoát cho khá nhiều kẻ hữu duyên trong chuyến gặp gỡ sau cùng này.

Khi đến Nàlakà vào một buổi chiều, ngài bèn dừng chân gần một cây đa ở cổng làng. Thình lình lúc ấy có người cháu trai của ngài nhân việc đi ra ngoài nhìn thấy. Người ấy vội đến đảnh lễ đức Trưởng lão. Xong ngài bèn hỏi:

Thân mẫu của bần Tăng có ở nhà không?

Người ấy trả lời: “Bạch ngài có ạ!”.

Ðức Trưởng lão liền nói: “Vậy phiền ông đi thông báo giùm cho bà biết là bần Tăng sắp về và nếu bà có hỏi chi tiết thì hãy bảo với bà rằng bần Tăng sẽ ở lại trong làng này chỉ một ngày mà thôi! Xin bà cứ sửa soạn căn phòng mà trước đây bần Tăng đã chào đời, và sắp xếp chỗ ở cho năm trăm vị Tỳ-kheo khác nữa nhé”.

Ông Uparevàta, tên người cháu của Ðại đức Sàrìputta, sốt sắng đến gặp mẹ ngài và báo rằng:

– Thưa bà! Ngài Sàrìputta đã về.

Nghe xong bà liền hỏi: “Hiện giờ ông ấy ở đâu?”.

– Thưa bà! Ngài đang ở tại cổng làng.

– Ông ta đi một mình hay có ai nữa không?

– Thưa bà, ngài về với năm trăm vị Tỳ-kheo.

Khi bà hỏi “Tại sao ông ta về” thì người cháu bèn thuật lại những lời nói của đức Trưởng lão. Bà liền nghĩ “Tại sao ông ta yêu cầu mình cung cấp chỗ ngụ cho rất nhiều người như thế? Phí bỏ thời gian còn trẻ để làm một Sa-môn, bộ khi về già ông ta muốn trở về làm cư sĩ hay sao?”.

Nhưng rồi bà cũng sắp đặt chỗ ngụ đầy đủ như vậy cho đức Trưởng lão và những vị Tỳ-kheo kia. Bà còn đốt nhiều cây đuốc và trao lại cho người cháu đem đến đức Trưởng lãochư Tăng để soi đường đi về nhà.

Chẳng mấy chốc, Ðại đức Sàrìputta cùng với chư Tỳ-kheo đã vào đến sân nhà bà và ngài tự ý bước thẳng vào căn phòng cũ của mình. Sau đó, ngài nhân danh mẹ ngài mời tất cả chư Tỳ-kheo đến những chỗ dành riêng cho họ để nghỉ ngơi.

Ðại đức Sàrìputta khi ấy chợt cảm thấy một sự đau đớn lan tràn cả thân xác, ngài vội vã lên nằm trên chiếc giường của mình và nhập ngay vào đại định. Những Tỳ-kheo có bổn phận hầu hạ ngài liền túc trực quan sát. Họ thấy da mặt ngài lúc đỏ lúc xanh, nhưng đức Trưởng lão vẫn nằm im thiêm thiếp, phong thái vẫn bình an. Kế đến từ hạ thân của ngài thải ra một chất nước. Thì ra ngài đang bị bệnh đi tả hoành hành. Những học trò của ngài phải thay phiên nhau tẩy uế. Cứ một chiếc thùng đưa ra thì một thùng khác trao vào.

Người đàn bà Bà-la-môn thoạt đầu có vẻ đố kỵ những vị Tỳ-kheo kia, nhưng khi thấy họ chăm sóc con bà một cách tận tình và kính trọng thì đâm ra có hảo cảm. Rồi càng theo dõi bệnh tình của Ðại đức Sàrìputta bà càng lo sợ. Lúc bấy giờ, chính bà lại nhận thấy sự có mặt của năm trăm vị Tỳ-kheo kia quả là một điều cần thiết cho bà.

Trong Kinh còn thuật lại rằng: Lúc đó có một chuyện lạ xảy ra: Bốn vị Thiên vương cùng hỏi lẫn nhau “Hiện tại không biết vị Ðại A-la-hán, bậc thông hiểu vạn pháp kia đang trú ngụ nơi đâu?”. Cả bốn vị Phạm thiên ấy đã lập tức thấy rõ ngài đang ở tại Nàlakà, trong căn phòng ngài được sanh ra trước đây. Ngài lại đang nằm trên giường bệnh và sắp nhập Niết-bàn.

Liền đó, họ cùng bảo nhau giáng trần để chiêm bái ngài lần chót. Khi bốn vị Thiên vương đã đến phòng bệnh của Ðại đức Sàrìputta, họ tự động dùng thiên lực làm cho cơn đau của đức Trưởng lão giảm xuống, rồi thỉnh ngài xả thiền để xin lời chỉ dạy.

Ðức Trưởng lão hỏi: – Các ông là ai?

– Bạch ngài! Chúng tôi là Tứ Ðại Thiên Vương.

– Tại sao các ông đến đây?

Chúng tôi muốn hầu ngài trong thời gian bệnh hoạn.

Nghe thế Ðại đức Sàrìputta bèn nói:

– Xin để mặc bần đạo. Vì bần đạo đã có học trò chăm sóc ở đây rồi, các vị có thể đi đi.

Khi Tứ Ðại Thiên Vương rời khỏi thì có vị vua Trời khác tên Sakka, cũng trong một vẻ tôn kính như thế, lại hiện đến thăm ngài. Tiếp theo là những vị Ðại Phạm Thiên cũng đến vấn an, nhưng tất cả đều được đức Trưởng lão bảo trở về như trước.

Người đàn bà Bà-la-môn, mẹ ngài, khi thấy những vị chư Thiên đến rồi đi như thế, bèn tự hỏi: “Họ là ai vậy kìa? – Ai mà đến tôn kính con ta như thế rồi lại đi?”. Bà tới tận cửa phòng của đức Trưởng lão để hỏi thăm Ðại đức Cunda về bệnh trạng của ngài. Ðại đức Cunda vốn thấu rõ ý muốn của Ðại đức Sàrìputta từ trước nên bước vào trong bạch với ngài rằng:

– Bạch đức Trưởng lão. Vị đại Tín nữ đã đến.

Ðại đức Sàrìputta liền mời bà vô và hỏi:

– Vì sao thân mẫu lại đến đây vào giờ bất thường này?

trả lời:

– Này con! Thân mẫu đến để thăm con. Con hãy nói cho thân mẫu biết những người vừa rồi đến thăm con đầu tiên là ai vậy?

– Thưa thân mẫu! Ðó là bốn vị Ðại Thiên Vương.

Nghe thế bà liền hỏi:

– Như thế thì ông còn cao quý hơn những người đó nữa ư?

Ðức Trưởng lão đáp:

– Họ chỉ là những bậc hộ trì Phật pháp. Khi Ðức Bổn Sư đản sanh họ chính là những kẻ đến hầu hạ đầu tiên. Trong giáo lý giải thoát, họ ví như những cận vệ quân luôn luôn có uy quyền trong tay để bảo vệ một vị Phật Tổ.

– Sau khi họ đi rồi thì vị đến kế tiếp là ai thế?

– Thưa thân mẫu. Ðó là vua trời Sakka.

– Này ông con yêu quý! Ðối với đức vua Trời kia, ông có cao thượng hơn không?

Ðại đức Sàrìputta trả lời:

– Thưa thân mẫu! Ông chỉ như vị Sa-di là người theo hầu hạ và mang vác những vật dụng của một Tỳ-kheo. Khi Ðức Bổn Sư từ trên cõi trời thứ ba mươi ba (Tàvatimßsa, Ðao-lợi) trở về vị trời Sakka đã mang bát và y phục của Ngài để tiễn Ngài từ Thiên giới đến cõi trần với một lòng tôn kính.

Bà lại hỏi tiếp:

– Và khi vị trời Sakka đi rồi, những vị đến sau đã dùng hào quang làm sáng cả căn phòng này là ai vậy?

– Thưa Tín nữ thân mẫu. Ðó là các vị Giáo chủ, những Ðại Phạm Thiên, những Thiên sư của chính thân mẫu đấy.

Vậy thì ông là người cao cả nhất. Này ông con quý mến của mẹ, ông còn cao quý hơn những Ðại Phạm Thiênxưa nay thân mẫu hằng ngưỡng mộ ư?

– Vâng, thưa thân mẫu. Vào ngày Ðức Bổn Sư ra đời, thân mẫu nào biết rằng chính bốn vị Ðại Phạm Thiên ấy đã đón rước Ngài trong một vuông lụa đầy hào quang vàng chói.

Khi nghe vậy, mẹ Ngài bèn nghĩ: “Nếu oai lực của người con trai mình như thế thì oai lực vô biên của đấng Bổn Sư ông còn to lớn biết dường nào?”.

Trong khi bà đang phân xét như vậy, bất chợt một sự kính ngưỡng nơi Tam Bảo bỗng phát sanh và phỉ lạc tràn ngập cả tâm tư bà.

Ðức Trưởng lão quán thấy biết rằng sự thỏa thíchniềm tin đã bừng lên trong tâm hồn người mẹ rồi, đây chính là lúc mà ngài phải thuyết pháp để báo ơn sanh thành dưỡng dục. Ngài hiền hòa hỏi:

– Này thân mẫu tín nữ. Thân mẫu đang suy nghĩ gì vậy?

trả lời:

Thân mẫu đang suy nghĩ: “Nếu con trai của mình mà có phước hạnh như thế thì ân đức của Phật Thích Ca Cồ Ðàm còn to lớn biết là dường nào?”.

Ðại đức Sàrìputta liền tiếp lời:

– Ngay giây phút Ðức Bổn Sư ra đời, ngay giờ khắc Ngài chứng được quả giải thoát vĩ đại và sau khi đạt đến sự Toàn giác rồi, Ngài bắt đầu Chuyển pháp luân. Trong ba lần này có hàng vạn hiện tượng cõi đời phải rung chuyển và chấn động. Không có một đấng nào có phước đức ngang hàng với Ðức Phật. Không có một đấng nào có sự an trụ, có trí tuệ, có hạnh giải thoát, có một độ thuần thục và một sức nhận thức pháp giải thoát cao hơn Phật.

Tiếp theo, Ðại đức Sàrìputta liền cắt nghĩa cho bà một cách chi tiết những lời tán dương vừa rồi. Chẳng hạn như ngài nói:

Thực ra, chỉ có Ðức Thế Tôn mới là đấng Ðại phúc hơn hết. Vì Ngài đã tròn đủ mười ân đức như: Ứng Cúng (Araham), Chánh Biến Tri (Sam màsambuddho), Minh Hạnh Túc (Vijjà-caranasam panno), Thiện Thệ (Sugato), Thế Gian Giải (Lokavidu´), Vô Thượng Sĩ (Anuttaro), Ðiều Ngự Trượng Phu (Purisadammasàrathi), Thiên Nhơn Sư (Satthàdeva-manussànamß), Phật (Buddha), Thế Tôn (Bhagavà)

Cứ như thế Ngài đã lần lượt làm cho bà thấu hiểu hết ân đức Phật đến ân đức Pháp, hết ân đức Pháp đến ân đức Tăng.

Khi người con cao thượng của bà sắp chấm dứt bài pháp, cụ bà Bà-la-môn tín nữ kia liền đắc quả Nhập lưu (Tu-đà-hoàn) một cách không dư sót. Và bà nói:

– Này người con đáng kính của mẹ! Này ngài Upatissa, tại sao trước đây ông không làm như thế để dắt dẫn mẹ? Tại sao trong suốt những năm qua ông không ban bố cho mẹ một sự hiểu biết bất tử này?

Ðức Trưởng lão bèn nghĩ: “Giờ thì ta đã đền đáp xong công ơn sanh thành của người mẹ ta rồi, người thiếu phụ Bà-la-môn mà trước đây dân làng ai cũng tôn kính và đều gọi là Rùpa Sàri. Chính nhờ bà, ta đã nên người. Pháp bảo mà ta vừa giảng cho bà thế là đủ”.

Ðoạn ngài yêu cầu bà để ngài nằm yên trong chốc lát.

Khi bà đã rút lui, ngài bèn hỏi Ðại đức Cunda:

– Này Pháp đệ! Không biết bây giờ là canh mấy rồi nhỉ?

– Bạch ngài! Trời chỉ mới vừa rạng đông.

Ðức Trưởng lão liền yêu cầu:

– Xin Pháp đệ hãy bảo chư Tỳ-kheo tập hợp lại.

Và lúc chư Tỳ-kheo tề tựu đông đủ, ngài bèn nói với Ðại đức Cunda rằng:

– Hãy khiêng tôi đem đặt vào phòng khách.

Ðại đức Cunda liền vâng lời và làm theo ý muốn của ngài.

An vị xong, đức Trưởng lão bèn tuyên bố với chư Tỳ-kheo:

– Này các huynh đệ. Trong bốn mươi bốn năm, bần đạo đã cùng sống và du hành truyền đạo với các vị, nếu bần đạo có một hành vi hay lời nói nào không vừa lòng, xin chư huynh đệ bỏ lỗi cho tôi nhé.

Tất cả đồng trả lời: – “Bạch ngài, dù một sự mích lòng nhỏ nhất đi nữa cũng chẳng bao giờ phát sanh giữa ngài với chúng tôi, ai đã noi gương ngài, theo chân ngài dù ngài khuất bóng đi nữa, họ cũng còn ghi khắc hình ảnh của ngài trong tâm khảm và như vậy bạch ngài: Nếu trước đây chúng tôilỗi lầm gì xin ngài từ bi tha thứ!”.

Nói xong, đức Trưởng lão liền góp nhặt những y phục xung quanh ngài, rồi tự mình phủ lên mặt, nằm xuống nghiêng mình về phía phải. Sau đó, ngay khi Ðức Bổn Sư đang sắp sửa nhập vào Vô dư Niết-bàn (Maha parinibbana) thì ngài bèn nhập vào trong cửu phẩm đại định theo cách tiến và thoái rồi nhiếp lại từ Sơ thiền trở lên cho tới Ðệ Tứ đại định. Ngay giây phút ngài đạt đến mức định ấy, thì vừng thái dương cũng vừa ló dạng ở chân trời và ngài đã hoàn toàn nhập diệt vào Niết-bàn vĩnh cửu nơi không còn dư sót bất cứ một sự dính mắc đau khổ nào.

Hôm ấy, là ngày trăng tròn tháng Kattika theo dương lịch là ngày 15 tháng 10.

Cụ bà Bà-la-môn khi chưa hay ngài đã nhập diệt suy nghĩ rằng: Không biết bệnh tình của ông con ta ra làm sao? Bà ngồi dậy đi vào trong phòng của đức Trưởng lão đặt tay lên hai chân của ngài. Lúc đó bà mới biết rằng ngài đã nhập diệt. Bà liền quỳ xuống dưới chân ngài than khóc: “Ôi người con trai yêu quý của mẹ! Trước đây mẹ đã không biết được phúc đức vô lượng của người. Vì thế mẹ không tạo được của cải bất diệt trong nhà này, và mẹ đã không biết nuôi nấng, giúp đỡ đến hàng trăm vị Sa-môn chơn chánh như giờ đây. Mẹ không tập được hạnh quý không xây cất được tinh xá”.

Bà cứ than thở như vậy cho đến khi mặt trời mọc. Lúc vầng thái dương vừa soi rõ cả không gian, bà mới cho mời những thợ chạm danh tiếng và ra lệnh mở kho của báu để lấy ra những khối vàng nặng nhất hầu chi dụng, và chế tạo đồ trần thiết trong tang lễ.

Sau đó là những cột phướn và những cửa tam quan được dựng lên ở trung tâm ngôi làng. Nơi ấy, vị tín nữ đã cho cất một ngôi nhà tế toàn bằng các loại gỗ quý. Ở xung quanh ngôi nhà tế, bà cho kiến tạo một số tiểu đình giao thông nhau bằng những hành lang rộng rãi, có mái che, và hai bên có những bao lơn bắt dính vào nhiều cây cột khảm vàng thật đẹp.

Ðoạn cuộc tế lễ bắt đầu. Người tham dự chẳng những rất đông họ hàng dân chúng mà còn có cả các hàng chư Thiên lẫn lộn. Khi số người vĩ đại ấy đã lễ bái theo nghi thức đủ một tuần lễ, họ bèn dựng lên một lò thiêu cao trọng bằng tất cả các loại trầm có mùi thơm quý nhất. Nhục thể của Ðại đức Sàrìputta được đặt lên giàn thiêu ấy và châm lửa đốt bằng những bó mồi do những rễ cây Usiva làm ra. Suốt đêm hỏa thiêu ấy, tất cả mọi người tham dự đều được nghe chư Tăng thay phiên nhau thuyết pháp. Ðức Trưởng lão Anuruddha cũng có mặt trong đêm lễ hỏa thiêu này. Ngài chính là người đã đích thân dùng nước hoa dập tắt ngọn lửa sau cùng. Ðại đức Cunda bèn góp nhặt những di hài còn lại và đặt vào trong một vuông vải lọc.

Trong khi làm như vậy, Ðại đức Cunda lại nghĩ “Ta không nên lưu lại tại đây lâu vì lúc này là thời gian Ðức Bổn Sư cũng chuẩn bị nhập diệt. Ta phải đi báo cáo cho đấng Toàn giác biết sự nhập diệt của Ðại sư huynh ta, vị đệ tử mà Ngài gọi cái tên Sàrìputta như một người thông hiểu vạn pháp”.

Liền đó, ngài lấy vuông vải lọc chứa đầy di hài Thánh thể, đồng thời với những di vật bình báty phục của Ðại đức Sàrìputta, rồi đến thành Sàvatth­ (Xá-vệ). Trên đường đi, chỉ có ban đêm là Ðại đức mới dừng chân tạm nghỉ.

Trên đây là những mẫu chuyện đã được ghi lại trong chú giải Kinh Cunda, thuộc Sati-patthàna Samßyutta. Kinh này còn được bổ khuyết do những song kệ trong chú giải bộ Mahà Parinibbàna Sutta. Sự tự thuật còn giữ lại trong Kinh Cunda được trích dịch như sau:

KINH CUNDA

(SATIPATTHAµNA SAMßYUTTA 23)

một lần Ðức Thế Tôn ngụ tại Kỳ Viên tinh xá của ông Trưởng giả Cấp-cô-độc (Anàtha-pinÝdÝika) trong thành Xá-vệ (Sàvath­).

Khi ấy, Ðại đức Sàrìputta lại ngụ trong làng Nàlaka, xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) và đang bị bệnh hoạn dày vò thân thể trầm trọng. Vị sư đệ tên Cunda là người đã hầu cận ngài.

Sau khi Ðại đức Sàrìputta tịch diệt, ông Cunda vội nhặt tất cả những di vật như bình bát, y phục của Ðại đức Sàrìputta đem đến thành Sàvatthì, vào tận trong rừng Jeta công viên của ông bá hộ Cấp-cô-độc. Khi đến nơi, ông đi thẳng đến Ðại đức Ananda để thông báo trước tiên, và lúc chào kính xong, ông ta bèn bạch với Ðại đức Ananda rằng:

– Bạch Ðại đức! Trưởng lão Sàrìputta đã nhập diệt rồi, và đây là bình báty phục của ngài để lại.

Ðại đức Ananda liền buồn bã đề nghị:

– Này đạo hữu Cunda! Về việc này chúng ta nên đến yết kiến Ðức Thế Tôn. Biết đâu khi hầu Ngài, chúng ta sẽ chẳng được nghe Ðức Phật dạy dỗ nhiều điều hữu ích?

Ðại đức Cunda lập tức tán đồng: “Vâng, bạch ngài!”.

Sau đó, họ cùng đến ra mắt Ðức Thế Tôn. Khi đã đảnh lễ Ðức Bổn Sư xong, họ ngồi sang một bên và Ðại đức Ananda liền bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

– Bạch Ðức Bổn Sư! Ðạo hữu Cunda thuật với đệ tửTrưởng lão Sàrìputta đã nhập diệt và đây chính là bình báty phục của ngài.

Rồi Ðại đức Ananda buồn bã tiếp:

– Ôi Ðức Thế Tôn! Khi đệ tử nghe tin Ðại đức Sàrìputta đã nhập diệt, thân thể đệ tử trở nên bàng hoàng yếu ớt. Mọi vật chung quanh trở nên mờ hẳn đi, và đối với đệ tử chúng không còn là những vật hữu dụng nữa.

Ðức Phật dạy: “Này Ananda! Sao lại như vậy? Khi Sàrìputta nhập diệt, ông ấy đã lấy đi của ông phần phước đức hay phần an trụ nào không? Ông ấy đã chia của ông phần trí tuệ hay phần giải thoát nào không?

– Bạch Ðức Thế Tôn, không phải như thế. Khi Ðại đức Sàrìputta nhập diệt, ngài không lấy của đệ tử một phần phước đức, an trụ trí tuệ hoặc pháp giải thoát nào cả. Ngài cũng không lấy của đệ tử một phần hiểu biết và nhận rõ con đường giải thoát nữa. Nhưng bạch Phật! Ðại đức Sàrìputta là một vị cố vấn trí tuệ hoàn toàn của đệ tử. Ðại đức đã giảng giải Pháp bảo một cách trọn vẹn, chính ngài là đấng dẫn dắt các hàng Tỳ-kheo lên Thánh đạo. Chúng đệ tử cũng còn nhớ rõ sự huấn pháp của Ðại đức nó linh hoạt, hữu lạc và thực dụng làm sao.

– Này Ananda! Trước đây Như Lai chẳng dạy cho ông rồi hay sao? Tất cả bản chất của mọi vật gần gũi và yêu mến đối với ta, trước sau gì cũng phải chịu một sự chia lìa, và do đó đệ tử của Như Lai phải quán tâm về pháp ấy chứ? Những hình thức nào được sanh ra, được lớn lên, được đoàn tụ, hẳn đều là nguyên nhân của sự tan rã, sự bại hoại. Những trạng thái đó đến với ta không có báo trước như thế nào thì cũng sẽ bỏ đi, không cần ta như thế ấy!

Thực ra, ta muốn bám víu cũng không bao giờ được. Này Ananda! Ví như một cành cây đến lúc không chịu nổi sức nặng của nó, tự nó phải gãy đổ, dù cho thân cây có cứng rắn đến đâu. Sàrìputta cũng vậy, ông sẽ nhập diệt, tức là ông đã rời khỏi cộng đồng Tăng lữ dù cho cộng đồng ấy có vĩ đại, có mạnh mẽ đến đâu. Này Ananda! Như Lai xin lập lại cho ông ghi nhớ rằng: Mọi pháp hành thực tiễn hay không thực tiễn, mọi hình thức vi tế hay thể khối sanh có mặt trên cõi đời này, tập hợp, phát triển rồi thì phải tiêu hoại. Chúng đã đến như thế nào thì sẽ đi như thế đó. Ðây chính là pháp vô thường vậy!

– Này Ananda! Do đó ông hãy tạo cho mình một hòn đảo rắn chắc để khỏi chìm đắm trong bể khổ. Ông nên từ bỏ những trạng vật vô thường. Ngay cả thể xác của ông, ông cũng nên cảnh giác để diệt trừ những pháp dễ duôi trên con đường xây đời vĩnh cửu. Phật giáo sẽ là hòn đảo rắn chắc, sẽ là động lực thoát khỏi sự vô thường, sẽ là bước chân liên tục để đưa ông vào cảnh giới bất tử.

Chú giải còn ghi rõ một đoạn thuật sự như thế này:

Khi ấy, Ðức Bổn Sư đưa thẳng cánh tay của Ngài để nhận lấy vuông vải lọc chứa di hài của Ðại đức Sàrìputta do Tỳ-kheo Cunda đặt vào tận bàn tay của Ngài và nói:

– Này chư Tỳ-kheo! Ðây là những di vật có màu sắc ngọc trai của một Tỳ-kheo mà trước đây không lâu đã xin phép Như Lai để nhập diệt. Ông là người đã tu tập để hoàn toàn trong một thời gian vô lượngtrải qua hằng trăm ngàn đời kiếp. Công đức ấy đã tạo ông thành một bậc Sa-môn vô cùng xứng đáng. Ông là người đã đạt được quả vị gần nhất của Như Lai. Và chỉ có ông mới được như thế. Trừ Như Lai ra không ai có thể bì kịp trí tuệ của ông, vì trí tuệ ấy đã được tạo ra do công trình hàng vạn kiếp. Sự vĩ đại của trí tuệ ông có thể ví như ánh sáng mặt trời, lúc nào cũng nhanh chóng tinh anh và tiềm tàng vô cùng tận. Vị Tỳ-kheo ấy bao giờ cũng tri túc, không ham thích dù chỉ là sự ham thích của những bậc Thánh nhơn, không ưa tạo hợp, đầy nghị lực và là người dẫn dắt khả kính của nhiều bạn đồng đạo, bởi luôn luôn biết tẩy trừ những điều tội lỗi của kẻ khác. Ông là người đã đi vào trong cuộc sống không gia đình, chối bỏ những của cải ham chuộng của thế gian mà ông có thể hưởng được như một người thừa tự. Gia tài bá hộ của cha mẹ ông không phải chỉ to lớn gần đây, mà thực sự đã giàu có qua hằng năm trăm đời. Ông chính là một Sa-môn đích thực và trong vô lượng kiếp qua ông đã thực hành pháp Ba-la-mật của Như Lai. Ông đã song hành và kiên nhẫn như quả đất. Với ông, tất cả đều vô hại, nhưng với ác pháp ông ví như một con vật chúa đoàn có đôi sừng bén nhọn, sẵn sàng ngăn chận những kẻ xấu có thể gây nguy hại cho đồng loại của mình. Ôi cao quý thay! Một Tỳ-kheo trong Phật giáo bao giờ cũng có một tư tưởng khiêm nhượng, người con trai cứu thế chính là ông vậy.

– Này chư Tỳ-kheo! Các ông hãy xem đây! Di hài của Ðại đức Sàrìputta, một vị Thánh Tăng đầy trí tuệ, đầy quảng đại, trong sáng, linh hoạt, sắc bén và tiềm tàng. Sự tri túc, ít ham muốn của ông với đức tánh thích ẩn dật, không ưa động hợp và đầy nghị lực đã làm cho ông trở nên một vị cố vấn lỗi lạc đối với những đồng đạo, khi họ còn tiến bước trên con đường giải thoát.

Tiếp theo, Ðức Phật còn đọc những câu kệ sau đây để ca ngợi vị đệ tử vĩ đại của Ngài:

– Trong một trăm ngàn kiếp sống qua, người đã năm lần thoát ly xiềng xích gia đình đem thân hành đạo thiện. Người luôn luôn giữ tâm mát mẻ đối với những kẻ xung quanh, tình thương bao giờ cũng tỏa rộng. Căn thức được kềm chế rồi thì linh hồn trở nên cao thượng và ngày nay cũng như mãi mãi về sau này đều được mọi người tôn kính. Dù ông Sàrìputta đã nhập diệt, tấm gương sáng chói biểu lộ sức mạnh kiên nhẫn của ông, người sau chỉ còn biết ví như quả đất. Trong trí tuệ của ông chỉ có một con đường duy nhất, con đường phát tiết lòng từ bi, thiện cảmmát mẻ một cách êm ả. Quả địa cầu này đã bền vững song song với ông giờ đây vẫn còn nâng đỡ con người đáng tôn kính ấy. Chư Tỳ-kheo! Hãy hướng về con đường Sàrìputta mà đi, mặc dù giờ đây ông đã nhập diệt.

– Người ấy thuở thiếu thời đã xa hẳn gia đình chỉ biết giữ trong tâm hồn mình một sự ôn hòa khiêm nhượng, tìm kiếm một thành trì kiên cố và bình thản bước mãi trên một lộ trình duy nhất. Sống cuộc đời khất sĩ, từ nơi này đến nơi khác, không màng danh lợi, không phải để cái tên Sàrìputta được người sau tôn thờ, mà là để soi sáng đồng loại đang vướng mắc trong vòng đau khổ. Nếu có ai mà suốt đời dù sống giữa đô thị náo nhiệt hay trong rừng sâu thăm thẳm cũng chẳng làm phương hại đến một chúng sanh thì người đó chính là Sàrìputta. Chư Phật đã ví ông như một con vật chúa đoàn uy vũ, suốt đời chỉ biết thương hàng đồng loại. Người đã thắng tất cả, hoàn toàn làm chủ lấy mình dù đã tịch diệt, người sau có tôn thờ đến đâu cũng không xứng đáng được.

Sau khi Ðức Thế Tôn đã ca ngợi hạnh phúc vô lượng của Ðại đức Sàrìputta như thế, Ngài bèn cho xây một Bảo tháp để tôn thờ di hài ấy.

Tiếp đó, Phật ngỏ ý với Ðại đức Ananda. Ngài muốn đi đến thành Ràjagaha (Vương Xá).

Ðại đức Ananda bèn thông báo cho chư Tỳ-kheo hay để chuẩn bị hành trình với Ðức Thế Tôn. Khi Ðức Phật vừa đến nơi thì Mahà Mog-gallàna Trưởng lão cũng đã nhập diệt.

Ðức Phật, một lần nữa, lại nhận những di hài như trước và dạy các hàng Phật tử lập Bảo tháp phụng thờ. Xong xuôi Ngài khởi hành từ thành Ràjagaha, qua nhiều đoạn đường, đi về hướng sông Ganga để đến xứ Ukkacela. Nơi đó Phật dẫn chư Tỳ-kheo đến bờ sông Ganga để thuyết một bài pháp nói về sự an nghỉ Niết-bàn của hai Ðại đức Sàrìputta và Mahà Moggallàna mà chư Thánh Tăng sau này gọi là Ukkacela Sutta.

*

KINH UKKACELA

Sau khi hai Trưởng lão Sàrìputta và Mahà Moggallàna nhập diệt chẳng bao lâu thì có một lần khi Ðức Thế Tôn đang ngụ tại xứ Vajji, trong vùng Ukkacela, gần bờ sông Ganga (Hằng Hà). Nhân vào lúc Ðức Phật vừa an tọa ngoài trời và có chư Tỳ-kheo ngồi xung quanh, Ðức Thế Tôn bèn bảo các đệ tử im lặng rồi thuyết rằng:

– Này các vị Tỳ-kheo! Sự hội họp này ngày hôm nay dường như có vẻ trống rỗng, vì hiện tại Sàrìputta và Mahà Moggallàna đã nhập diệt rồi. Không phải Như Lai cho đó là một sự trống rỗng thường tình vì dù sao cũng có chư Tăng hội họp nơi đây. Cũng chẳng phải Như Lai đang thương tiếc Sàrìputta và Mahà Moggallàna, hay nghĩ đến những nơi nào mà hai đại đệ tử ấy đã ngụ mà Như Lai cảm thấy trống rỗng bởi lòng từ mẫn đối với chư vị đó. Hiện tại xác thân Như Lai cũng yếu chẳng bao lâu sẽ nhập Niết-bàn. Như Lai làm sao đủ sức khỏe để dắt dẫn toàn thể Tăng chúng đoạt được mục đích mong muốn? Phải chi Sàrìputta và Mahà Moggallàna còn hiện tiền thì con đường tiến tới giải thoát của chư đệ tử có thể đảm bảo hơn.

Trong quá khứ, những bậc Ðộc-giác, những bậc Toàn giác và những đấng Thế Tôn cũng đều có những cặp đệ tử ưu tú như Như Lai đã có Sàrìputta và Mahà Moggallàna vậy. Trong tương lai chư Phật cũng sẽ có như thế, như hiện tại Như Lai đã có hai vị đệ tử ưu tú vừa nhập diệt. Ðó là những công đức vô lượng, những nhân vật tuyệt diệu nhất. Này chư Tỳ-kheo! Các ông nên tưởng nhớ đến những đại đệ tử Phật như thế, vì họ đã song hành và hòa hợp trong Ba-la-mật pháp của vị Bổn Sư. Họ có thể thay thế Ðức Thế Tôn để giáo huấn các hàng đệ tử một cách đúng đắn. Ðối với toàn thể tứ chúng họ rất yêu mến và cũng được kính mến tin tưởng trở lại bởi mọi người. Này chư Tỳ-kheo, họ là hiện thân của những phúc đức kỳ lạ, là hội tụ của những tâm trí cao thượng nhất. Các ông hãy niệm tưởng đến các bậc hoàn toàn như thế. Và khi một đôi đại đệ tử thuộc hạng này đã nhập diệt, đối với một đấng Toàn giác, không có vấn đề âu sầu than tiếc.

– Những hình thức nào được sanh ra, trưởng thành bởi cấu hợp chỉ là những sự biểu thị cho giai đoạn tan vỡ. Nó đã bắt đầu như thế nào thì nó cũng sẽ kết thúc như thế ấy, đây là một định luật không ai có khả năng biến đổi được.

– Này chư Tỳ-kheo! Do đó các ông hãy tự tạo cho mình một hòn đảo, để tránh làn sóng sanh tử luân hồi. Hãy tập từ bỏ cái bản ngã vô thực của mình đi, tẩy trừ sự dễ duôi, phải đem giáo lý giải thoátxây dựng cho đời mình.

Chúng tôi muốn kết thúc CUỘC ÐỜI CỦA ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA (hay Xá-lợi-phất)... bằng những lời dạy trên đây của Ðức Phật. Những giáo huấn này vẫn còn âm vang mãi cho đến ngày nay.

Ðại đức Sàrìputta không phải chỉ được chính Ðức Phật khen ngợi, không phải chỉ được toàn thể Thánh Tăng thời Phật còn tại tiền tán dương, mà ngày nay Ngài cũng vẫn được tất cả Phật tử trên năm châu bốn biển tôn kính, xem Ngài như là một đại bác học trong kho tàng Phật giáo.

Ðại đức Sàrìputta tịch vào ngày trăng tròn tháng Kattilà, tức nhằm ngày Rằm tháng Mười dương lịch. Còn Ðại đức Mahà Moggallàna nhập diệt sau đó nửa tháng, vào một ngày Uposattha có trăng non. (Theo chú giải Kinh Ukkacela). Rồi nửa năm sau thì đến ngày nhập Niết-bàn của Ðức Thế Tôn, theo thông lệ chư Phật quá khứ.

Nếu kể luôn sự nhập Niết-bàn của Ðức Phật, thì đây là một chuỗi tịch diệt vô cùng lịch sử của ba nhân vật vĩ đại nhất thế gian.

Khoảng cách từ Ðại đức Sàrìputta viên tịch đến khi Ðức Thế Tôn nhập Niết-bàn chỉ có sáu tháng. Trong vòng nửa năm trời đó, chư Thiênnhân loại đã trải qua một thời gian đầy quả phúc lẫn mất mát:

Ðầy quả phúc vì trước khi nhắm mắt, các Ngài dù Thanh-văn giác hay Toàn giác, đã đem tất cả ân đức của mình ban bố hết cho thế gian, bởi các Ngài không bao giờ mang quả phúc vào trong cõi Vô sanh Bất diệt.

Mất mát vì nhân loại khi đã vắng bóng các Ngài rồi thì muôn ngàn kiếp sống luân hồi về sau mỗi ngày một tiến sâu vào cảnh hỗn mang đen tối.

Một điều đáng cho chúng ta lấy làm thắc mắc là tại sao các Ngài không nhập diệt bằng một lịch trình xa hơn, nghĩa là cách nhau đôi ba năm nay càng lâu càng tốt, để cho chúng sanh mê muội được nhờ. Ðàng này các Ngài đã lần lượt ra đi chỉ trong vòng sáu tháng?

Sự giải đáp chỉ có thể tìm thấy trong Kinh Milanda Panõhà (Mi Lan Ðà Vấn Ðạo): Theo đó, đức Na-tiên Tỳ-kheo đã giảng giải cho vua Mi-lan-đà nghe rằng:

– Tâu đại vương! Trong nhiều trăm ngàn kiếp qua, đức Trưởng lão Sàrìputta đã từng làm thân phụ của vị Bồ-tát. Có khi là ông nội, có khi làm chú bác, anh em, con cháu, hoặc bạn bè của chính Bồ-tát tiền thân Phật Thích Ca.

Do vòng nhân duyên tiến hóa ấy, liên kết các Ngài cùng thời từ nhiều kiếp trước. Cho nên đến kiếp sau cùng, sự gặp lại của ba vị chỉ là giai đoạn viên mãn tự nhiên, và tuổi thọ nhục thân của các Ngài phải suýt soát nhau. Còn cái vòng sanh tử trước đó chính là những nấc thang để nâng các Ngài lên cõi bất tử.

Trong kiếp sống sau cùng, các Ngài chỉ còn một việc phải làm là thắp sáng ngọn đuốc giải thoát một cách vinh quang để chiếu sáng cho cõi đời.

Sức sáng ấy bây giờ và mãi mãi về sau vẫn còn tiếp tục.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8006)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35524)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19656)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11683)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23168)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5841)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10596)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10343)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10036)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20845)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6201)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6846)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8885)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6009)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18146)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6345)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6722)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6549)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12990)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5861)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7881)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10192)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7862)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9857)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9070)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5979)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24533)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36365)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7714)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11543)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10032)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5225)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5417)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9993)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7877)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9353)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8648)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46493)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6892)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12288)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5793)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14484)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14541)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12404)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10949)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9625)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16684)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8466)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5954)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9947)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6373)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11345)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7040)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46689)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13488)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8383)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6851)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9167)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6179)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6896)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17830)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18162)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15783)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6942)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31221)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9570)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7680)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21612)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34163)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33291)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14232)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35633)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13003)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15767)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13679)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33024)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26346)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41402)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40343)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20034)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33692)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29676)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33723)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18862)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22684)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22410)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48988)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11961)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11157)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22503)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17991)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15113)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22675)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15996)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13109)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19718)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12061)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant