Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

29. Vài Cảm Niệm Về Một Vị Hoà Thượng Đã Ra Đi

12 Tháng Chín 201300:00(Xem: 3911)
29. Vài Cảm Niệm Về Một Vị Hoà Thượng Đã Ra Đi
Vài Cảm Niệm Về

Một Vị Hoà Thượng Đã Ra Đi


Khi Hòa Thượng Tín Nghĩa yêu cầu tôi viết một bài kỷ niệm về Hòa thượng Minh Tâm trước sự ra đi đột ngột của Ngài, tôi thật không biết viết gì đây. Kỷ niệm thì rất nhiều, nhưng Ôn ta không phải là người dễ có kỷ niệm để nhắc nhở, bởi Hòa thượng là người thuần khuynh hướng sinh hoạttích cực làm việc, không hưởng thụ, không thích tình cảm giao hảo vui chơi. Tuy có lẽ tôi là người ở gần Hòa thượng lâu nhất, nhưng phải nói rằng Hòa thượng Như Điển mới chính là người cùng chí hướnggắn bó hơn hết với Ngài. Lại nữa khuynh hướng của tôi hoàn toàn thiên về nghiên cứu Phật pháp, không thiên về sinh hoạt, thế nên dù tôi có sống gần Hòa thượng, nhưng các Thầy khác cùng sinh hoạt với Hòa thượng mới thật sự là gần hơn. Tuy thế, nhưng tôi tin chắc là giữa tôi với Hòa thượng vẫn có một sự thắt chặt vô cùng đặc biệt sau bao năm gần gũi, vừa trong sinh hoạt của giáo hội bên ngoài, vừa sinh hoạt nội bộ của Khánh Anh bên trong. Nên tôi nghĩ rằng, thôi hãy để các Tôn túc khác nói và kể về các công đức trong sự nghiệp hoằng pháp của Hòa thượng cũng như các kỷ niệm về Ngài trong sinh hoạt của Giáo Hội. Phần tôi, chỉ xin ghi lại vài dòng cảm niệm chân thật thoáng lên trước sự ra đi của Hòa thượng, người mà thực sự tôi coi như một ông anh cả, gần mà xa, xa mà gần...

Ngẫm lại cuộc đời, thật là vô thường. Và vô thường tuy vô thường, nhưng vô thường diễn ra hoàn toàn không ra khỏi lãnh vực của nhân duyên. Nguyên lý nhân duyên luôn luôn là khởi điểm của mọi câu chuyện trong cuộc sống con người...

Nhân duyên đưa đẩy sáu người chúng tôi (HT. Minh Tâm, HT. Tánh Thiệt, HT. Trí Minh, HT. Như Điển, HT. Thiện Huệ và tôi) tụ hội với nhau giữa một Âu Châu bảo thủ, cũ kỹ, nhỏ bé và đa ngôn ngữ. Mỗi chúng tôi mỗi cá tính, chẳng ai giống ai, nhưng cùng nhau chung lo gánh vác được công việc Phật sự tại Âu Châu này cũng là do nơi sự lãnh đạo của người "anh cả", tuy như người anh cả song sẵn sàng kiên nhẫn và khiêm nhường đối với các em. Phật sự trôi chảy nếu nhân duyên hoàn toàn thuận lợi, hoặc trục trặc trúc trắc nếu nhân duyên chẳng thể theo ý người. Đa số nhân duyên không bao giờ tự động thuận lợi, ý chí con người cần phải xen vàonỗ lực sắp xếp, nhân duyên mới chịu thuận theo lòng người. Với ý chí kiên trì, với tâm tính nhẫn nại, người anh cả điều hànhchúng tôi hợp lực, mọi trúc trắc của nhân duyên dần dà đều được vượt qua. Vui cũng có, buồn cũng có, hứng thú cũng có mà mệt mỏi cũng có. Nhân duyên của cuộc sống không bao giờ ngưng, nó tiếp tục hiện đến, tiếp tục thúc đẩy, các Thầy khác xuất hiện, các người em mới tới, khiến người anh cả càng hăng say làm việc, kéo theo sự cộng tác của các em và nhiều em hơn nữa, Phật sự lan rộng khắp Âu Châu, vui buồn cũng tăng theo! Chúng tôi như say men theo sự cuốn hút của nhân duyên cuộc đời, tưởng chừng như vĩnh viễn, nhưng rồi đến một lúc, khi bao nhân duyên mâu thuẫn phức tạp và dồn dập của cuộc sống ập đến, không đỡ nổi gánh nặng của nhân duyên chúng tôi như thể bị tan rã. Chẳng ai ưa thích sự ly tan này, nhưng cũng chẳng ai vượt ra khỏi được lẽ tan hợp của nhân duyên.

Tôi thấy ra nhân duyên khiến chúng ta gặp gỡ nhau là để ta được là "ta" và người được là "người", có người có ta thì rồi mới để làm việc này việc kia, để thương để ghét, để vui để buồn, để cùng nhau tạo nên những màn bi hài kịch, để làm cuộc sống này nhộn nhịp ồn náo lên như một bữa tiệc linh đình. Rồi khi đã làm xong, yến tiệc đã chấm dứt, thì chỉ còn bóng tối ở lại, còn mọi người người thì.... thì cũng chính vì con người cùng hiện hữu với nhau trong nhân duyên, nên nhân duyên hội đủ thì con người gặp gỡ, nhân duyên ly tán thì con người ly tan, và cuối cùng khi nhân duyên chấm dứt, mọi người sẽ tuần tự ra đi, và... trong chuỗi nhân duyên chung của chúng tôi, người anh cả đã ra đi trước nhất cũng như là anh đã đến trước tiên...

Nhìn lại bao năm như giấc mộng, giấc mộng của nhân duyên... một giấc mộng ồn náo của những con người cô đơn. Thân phận của con người thật sự là cô đơn! Để đến với nhân duyên của cuộc sống này con người một mình nhập vào thai mẹ, khi nhân duyên này chấm dứt con người cô đơn ra khỏi cuộc đời, đi vào trung hữu... lúc sinh, khi tử đều cô đơn!...

Đạo Phậtniềm tin tuyệt đối trong tôi, thế nên tôi tin rằng: Khi một người ra đi, đi vào sự chết, là đi theo con đường do chính người ấy đã tạo ra ngay trong cuộc sống của chính mình. Có điều trong cuộc sống của mình, con người tạo tác rất nhiều, không phải chỉ bằng tay chân mà còn bằng tư duy, còn sáng chế và phát minh không ngừng để còn làm và làm nhiều hơn nữa, nhưng chắc chắn không ai nghĩ rằng mình làm việc là để làm cho sự chết, không ai nghĩ rằng sống chính là để chết. Con người sống với nhau, làm việc cho nhau để cùng sống với nhau. Sự chết làm mất đi mọi ý nghĩa của sự sống, nó có tính chất phá hoại toàn thể cuộc sống, rõ ràng sống và chết là hai điều tương phản hoàn toàn, thế nên nói “sống là để chết” phải chăng là điều không thể chấp nhận được?...

Tôi có chút lý luận: Nếu sống, chết không liên quanvới nhau, thì các lễ thức tống táng, truy điệu, thương tiếc, cúng giỗ, rõ ràng là chuyện của người sống, chẳng liên quan gì đến kẻ mất. Nếu có “liên quan” thì các chuyện đốt vàng mả, nhà cửa, xe cộ cho kẻ chết đều không phải là mê tín.

Tôi thấy sống, chết liên hệ chặt chẽ với nhau qua hiện thực cá nhân của con người, chứ không qua khái niệm của sống, chết hay qua các hoạt động văn hóa của tang lễ này nọ. Sống là chính tôi sống mà chết cũng là chính tôi chết, thế nên qua cá nhân tôi, sống và chết liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu không có sống tôi không có chết, nếu không có chết tôi không có sống, sống chết thật sự không lìa khỏi nhau được. Có điều sống là tôi với mọi người cùng sống với nhau, song chết tôi với mọi người có cùng chết với nhau hay không, điều này chắc chắn là không. Khi sống, tôi sống với tất cả mọi người, khi chết, chỉ mình tôi chết mà thôi! Sự chết luôn luôn là riêng tư và là bí mật của riêng người chết. Người sống biết nơi chôn cất của người mất, song chẳng biết rõ người mất kia đi về đâu? Chúng taquan tâm gì đến người chết hay không hay chúng ta chỉ biết tiếc thương một người sống mà nay vĩnh viễn không biết đang ở đâu và đang làm gì? Nếu chúng ta thật sự quan tâm đến người chết, tôi nghĩ chúng ta cần hiểu rõ về mối liên quan mật thiết giữa sự sống và lẽ chết.

Đạo Phật nói lên sự liên quan này một cách rất đơn giản: Trong khi sống chúng ta tạo “nghiệp,” đến lúc sự sống tan rã, nghiệp còn lại, hiện ra cảnh giới chết của chúng ta. “Nghiệp” như thế chính là mối liên quan chặt chẽ giữa sự sống và lẽ chết. Nghiệp này là gì? Tôi cố trả lời cho ngắn gọn, đầy đủ và chính xác như sau: Nghiệp là hoạt động thiện hoặc ác thuộc về tâm tôi ở bên trong điều khiển mọi hoạt động thuộc thân, khẩu của tôi ở bên ngoài trong suốt lúc sống, và đến khi thân, tâm của tôi chết đi chỉ riêng “nghiệp tâm” này còn lại, hình thành ra một hữu tình chết và cũng chính là hữu tình đi tái sinh.

Ai sống mà không sống bằng tâm? Ai sống mà lại không có hoạt động? Mà hoạt động nào lại không có tâm làm chủ, lại không liên hệ đến nhiều người, lại không có tính chất tốt xấu? Khi chết, mọi hoạt động chấm dứt, mọi liên hệ chấm hết, phần tâm thức làm chủ các hoạt động này cũng diệt tắt, chỉ phần hoạt động thiện ác của tâm là còn lại, được gọi là “nghiệp.”

Khi sống, tôi luôn tin chắc rằng tôi sống và làm việc là làm cho sự sống. Nhưng sự sống trước sau gì cũng phải chấm dứt. Vậy thì tại sao tôi lại dành hết sinh lực của sự sống để làm việc cho một cái chắc chắn chấm dứt? Và tôi được lợi gì nơi đó? Bao nhiêu công lao tâm sức của tôi tạo tác đủ thứ, tôi được gì khi tôi chết? Nếu mọi tạo tác khổ nhọc trong đời sống con người không để lại một nhỏ nhoi gì đó trong sự chết, thì cuộc sống tạo tác của con người quả thậtvô dụng... một cách bi thảm. Thế nên, sự sống phải tạo ra một sự “nghiệp” tốt đẹp nào đó cho sự chết, thì sự sống ấy mới tràn ngập ý nghĩa....

Ý nghĩa quan trọng nhất của “nghiệp” mà tôi thấy ra là ở chỗ: Nghiệp là sự thật nhất của chính mỗi người, nó ở tận cùng bên trong tâm thức chúng ta, với nó, mọi thành quảcá nhân đạt được trong lúc sống chỉ là trò chơi bên ngoài. Người đời có thể ca ngợi một người đã mất là vĩ nhân, vì đã để lại cho đời biết bao điều tốt đẹp, họ tri ân người ấy. Nhưng các điều tốt đẹp “bên ngoài” ấy không bảo đảm chút nào là ông ta đang ở thiên đường, mà chính cái nghiệp tâm thâm sâu hoạt động bên trong ông ta trong lúc còn sống mới quyết định là ông ta đang ở đâu, thiên đường hay địa ngục? Một lãnh đạo độc tài hiểm ác khéo che đậy khi chết có thể được cả nước thương tiếc tôn thờ, nhưng nghiệp hiểm ác kia vẫn đưa ông ta xuống địa ngục bất chấp sự tôn thờ huyễn ảo của đời sống kia!

Vì vậy, đạo Phật dạy sống là để tạo nghiệp xây dựng cho sự chết, nói rõ hơn, sống là để mở ra con đường vượt qua bờ bên kia của sinh tử. Mỗi cuộc sống là một lớp học, sự chết của mỗi cuộc sống là kỳ thi cuối của lớp học ấy. Nếu thi đậu chúng ta vượt qua lớp học ấy và tốt nghiệp, nếu không đậu, chúng ta phải ở lại lớp hoặc còn phải xuống nhiều cấp nữa!

Ai rồi cũng chết, nhưng chúng ta có cả một sự sống diễn ra trước khi chết. Sự sống ấy có, không phải là để chúng ta tạo tác các nghiệp tham sân si với nhau để rồi đến khi chết ai nấy đều đọa lạc trong khổ đau, như những thí sinh rơi rớt. Trái lại chúng ta có cuộc sống này là để thực hành các nghiệp Đạo, để lấy đó làm trớn mà nhảy băng qua bờ bên kia của tử sinh vào ngay khi sự chết xuất hiện, như những thí sinh tốt nghiệp.

Không ai ngoài chư Phật, các Bồ-tát thập địa và các thánh A-la-hán mà có thể chỉ bằng một đời thôi là vượt qua đến bờ kia. Tôi là người phàm, một đời không đủ cho tôi chút nào, nhưng chỉ miễn sao qua một đời tôi không bị rơi rớt mà có thể được vươn lên một cấp cao hơn là tôi đủ hài lòng để bước vào sự chết không tiếc nuối, không sợ hãi...

Đến đây, tôi nghĩ một chút lý luận đã tạm đủ để trở lại với cuộc sống bên ngoài giả tạo mà chúng ta vẫn cho là thực tế hiện thực, cuộc sống của nhân duyên....

Tôi có nhân duyên có người anh cả mất vào thời chiến cách đây hơn bốn mươi năm trời, sự mất mát của người anh ấy gợi lên trong tôi một ấn tượng bàng hoàng về tử sinh và... lần đầu tiên trong đời, ý tưởng xuất gia hiện rõ trong tôi. Rồi nhân duyên xuất gia đến... và không bao năm sau tôi lại có nhân duyên gặp người anh cả ở trong đạo này. Hơn hai mươi năm trời gần gũi và làm việc chung, đến lượt người anh này cũng ra đi, một lần nữa đề tài "sinh tử" lại khơi dậy mạnh mẽ trong tôi. Nhưng lần này, nhờ pháp Phật hun đúc qua bao năm, lẽ sinh tử thật sáng tỏ trong tôi. Tôi không còn thấy có gì là buồn nữa đối với sự chết của bất cứ người thân quen nào, tôi chỉ buồn nếu người chết “thi rớt” và tôi vui nếu người ấy “thi đậu” hay “lên lớp”.

Tôi tin rằng anh tôi đã lên lớp, một con người kiên trì, nhẫn nại, kín đáo, đơn giản, không lễ nghi khách sáo, không thích nói về mình, không tham lam cất giữ, không sân hận thô tháo, sống không phải là để hưởng thứ này hay thứ kia mà sống là để làm việc cho lý tưởng của mình, để làm hết tất cả năng lực của mình và làm cho đến giọt sinh lực cuối cùng, vượt qua bệnh tật đầy quả cảm, một con người có vẻ lạnh lùng nhưng đầy châm biếm, uyển chuyển nhưng sẵn sàng quyết liệt, một con người cần làm việc lớn nhưng chẳng cần ai, sẵn sàng cô đơn một mình và... trên hết một con người ra đi hoàn toàn chẳng luyến tiếc gì, nhẹ nhàng và thanh thản... Nghiệp của anh tôi là thế đấy!

Tôi vui dù có chút bùi ngùi. Bảo tôi kể lại một vài kỷ niệm, thật tình đâu phải ít. Nhưng nói đến kỷ niệm là nói đến nỗi nhớ, thì không hiểu sao trong ký ức của tôi chỉ nghe trào dâng lên có ba chữ, ba chữ mà trong bao năm qua các vị Thầy thân quen, các phật tử xa gần mỗi khi nói đến người anh ấy vẫn thường nói lên, đó là ba chữ “Thầy Minh Tâm”.

Thích Nhất Chân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7969)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35348)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19532)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11599)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23060)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13267)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5809)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10557)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10290)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 9956)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20758)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6176)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6821)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8842)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 5978)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18107)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6314)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6699)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6522)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12934)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5834)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7843)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10131)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7826)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9811)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9036)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5919)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24481)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36271)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7666)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11473)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 9981)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5203)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5399)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9937)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7833)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9326)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8581)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46367)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6871)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12167)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5761)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14405)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12915)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12347)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14409)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12321)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10919)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9586)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16611)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8434)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5928)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9892)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6344)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11282)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7001)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46567)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13458)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8328)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6835)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9131)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6162)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6868)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17743)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18057)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15689)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6911)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31102)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9543)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7654)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21516)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34086)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33187)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14178)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35547)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 12978)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15738)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13633)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 32917)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41301)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40236)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19998)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33618)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29642)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33697)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18794)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22320)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48912)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11938)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11139)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22406)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17935)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15068)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22617)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15966)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13083)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19659)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12037)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant