Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Tát Thích Quảng Đức - Ngọn Lửa Từ Bi Và Trái Tim Bất Diệt

02 Tháng Mười 201300:00(Xem: 6894)
Bồ Tát Thích Quảng Đức - Ngọn Lửa Từ Bi Và Trái Tim Bất Diệt
BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC
NGỌN LỬA TỪ BI VÀ TRÁI TIM BẤT DIỆT

Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư
Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013
Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington

bo-tat-quang-duc

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch chư Tôn Đức Tăng già,

Kính thưa chư vị Thiện Hữu tri thức,

Lễ hiệp kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ VII, được tổ chức tại chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington, đông đảo chư Tôn Đức Tăng Ni và thính chúng, đã hoan hỷ câu hội trong tinh thần tương kính, tương thuận, tương giáo, tương sám như Luật dạy, cũng như pháp hòa kính, cộng trú mà hành Phật sự khắp mọi miền trên các quốc gia - Châu lục. Cũng như giữ gìn và phát huy bản thể của Tăng Già để làm điểm tựa sức sống trên bản nguyện thượng cầu hạ hóa.

Hôm nay trên tinh thần đó, chúng ta hãy chiêm nghiệm lại hành trạngtinh thần tu chứng của Bồ Tát Thích Quảng Đức. Một con người bằng xương, bằng thịt, nhưng đã tích lũy công đức tu hành để có trái tim bằng kim cương bất hoại, được đốt cháy bằng ngọn lửa Từ Bi, trong ý thức bảo tồn, thăng hoa cuộc sống công bằng, bình đẳngnhân bản.

I. Thân Thế Và Hạnh Nguyện Tu Trì:

Bồ Tát Thích Quảng Đức pháp danh Thị Thủy, pháp tự Hành Pháp. Thế danh là Lâm Văn Tuất. Sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Từ thuở nhỏ Bồ Tát xuất gia với Hòa Thượng Thích Hoằng Thâm là bổn sư cũng là cậu ruột. Bồ Tát được Hòa Thượng nhận làm con nuôi nên đặt tên là Nguyễn Văn Khiết. Năm 15 tuổi Bồ Tát thọ Sa Di. Năm 20 tuổi thọ Cụ túc giới.

Sau khi thọ giới xong Bồ Tát vân du hóa độ, Bồ Tát đã ẩn tu trong núi trọn 3 năm tại Ninh Hòa cho đến ngày hoàn mãn, Ngài đến Nha Trang cũng như các vùng phụ cận, từng bước chân hóa duyên, một mình bằng hạnh Đầu đà rày đây mai đó để làm điểm tựaxây dựng niềm tin Phật Pháp kiên cố cho người Phật tử cư sĩ tại gia.

Vào năm 1932, khi Hội An Nam Phật Học ra đời, quý Ngài đã cung thỉnh Bồ Tát trong ngôi vị chứng minh Đạo sư cho Chi Hội Phật Giáo Ninh Hòa và sau đó kiêm nhiệm vai trò kiểm Tăng trong tỉnh Khánh Hòa. Trong thời gian làm Phật sự, hoằng pháp lợi sanh các tỉnh miền Trung Bồ Tát đã kiến tạo hoặc trùng hưng tất cả là 14 ngôi tự viện.

Công đức tu hànhnhân duyên hóa độ tùy duyên, năm 1934, Bồ Tát rời miền Trung để vào miền Nam tiếp tục trên con đường hoằng dương Phật pháp nơi đây. Bồ Tát đã làm Phật sự khắp miền Nam Việt Nam. Nơi nào có nhân duyên giáo hóa, Bồ Tát đều hóa thân phụng sự mà không phân biệt, vô thưởng, vô cầu. Do vậy, Bồ Tát cũng đã đến Campuchia để tham vấn, nghiên cứu kinh điển Pali Theravada. Con đường hoằng dương chánh pháp từ lúc thiếu thời ở miền Trung nước Việt, Bồ Tát đã hoàn thành sứ mạng của bậc chân tu thạc đức như thế nào thì vào miền Nam Nam Việt Bồ Tát vẫn đi trên con đường kiến lập đạo tràng, trùng hưng tự viện như vậy. Do đó, nơi đây Bồ Tát đã khai sơn trùng tu là 17 ngôi Chùa. Tổng cộng tất cả hai miền Trung Nam là 31 ngôi Già Lam hiện còn. Ngôi chùa cuối cùng, Bồ Tát trụ trì là chùa Quan Thế Âm, địa chỉ: 68 Nguyễn Huệ, quận Phú nhuận Gia Định. Nay đổi lại tên của Bồ Tát là Thích Quảng Đức.

Vào ngày 20 tháng 4 nhuần, Quý Mão, nhằm ngày 11 tháng 6 năm 1963, trong cuộc đấu tranh của Phật Giáo, nhằm đòi hỏi công lý, lẽ phảibình đẳng tôn giáo, Bồ Tát đã nhận thấy được đâu là chánh pháp, đâu là thế lực vô minh tham vọng, bá quyền, Bồ Tát đã phát nguyện thiêu thân để bảo tồn chánh pháp. Để soi sáng lương tâm, lương tri chế độ đương thời. Tu hạnh Bồ Tát nên Bồ Tát đã thể hiện ước nguyện Bồ Tát bằng hành động của con đường Bồ Tát tự tẩm xăng ướt hết mấy lớp y hậu, rồi thiền tọa tại ngã tư Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt giữa hàng hàng lớp lớp chư Tôn Đức Tăng Ni, công an, cảnh sát, tự tay bật lửa thiêu thân.

Từ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi, đốt thân mình làm ngọn đuốt thiêng soi sáng lương tri nhân loại. Thì cũng bằng tinh thần Đại Xả, Đại Hạnh, Đại Nguyện Bồ Tát đã khuyến tấn bằng lời nói Từ Bi vô phân biệt: “Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi cho tổng thống Ngô Đình Diệm, nên lấy lòng bác ái, Từ Bi đối với quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng Tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở... Tôi tha thiết kêu gọi chư Thượng tọa, Đại Đức Tăng Ni, Phật Tử nên đoàn kết nhất trí, hy sinh để bảo tồn Phật Giáo.”

botatquangduc-3a

II. Ngọn Đuốc Thiêng Được Đốt Lên Bằng Định Lực Và Lời Nguyền:

Trước tình huống dầu sôi lửa bỏng, chư Tôn Đức Tăng Ni bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp khốc liệt, ngày càng nghiệt ngã. Các ngôi chùa miền Trung - Huế, đến Ấn Quang, Xá Lợi, Sài Gòn, đâu đâu cũng đầy màu tang tóc. Tiếng gào thét, lời rên xiết kêu la trong những trận tấn công của chính quyền bằng dùi cui, mã tấu, lựu đạn đến chư Tăng Ni, Phật tử, sinh viên, học sinh. Hình ảnh ấy in sâu vào tâm thức của Bồ Tát. Cái gì đến thì đã đến: đến bằng hạnh nguyện Từ Bi cứu khổ độ đời. Đến bằng Đại Hạnh Phổ Hiền. Bằng Đại Bi Quan Âm. Bằng Đại nguyện Địa Tạng Bồ Tát. Nơi chánh điện chùa Ấn Quang. Bồ Tát nhất tâm thọ trì Kinh Pháp Hoa để giữ tâm được tươi mát và kiên định ước nguyện được viên mãn. Bồ Tát lên chánh điện chùa Ấn Quang trong giờ tịnh độ, khóa lễ xong, Phật tử ra về, khi ấy Bồ Tát nói với Thầy Huệ Thới và Thầy Đức Niệm:

“Vì đại chúng, tôi xin hiến thân giả huyễn để cho pháp nạn được giải thoát. Ngày mai này tôi sẽ từ giã cõi đời, hẹn gặp hai Thầy ở cảnh giới cực lạc của Đức Phật A Di Đà, sau khi tôi tự thiêu để hiến dâng cho Phật Pháp, xin các Thầy lưu ý, vì tôi không thể trực tiếp nói với các vị lãnh đạo:

- Thứ nhất: Sau khi thân tôi thiêu thành tro bụi sẽ lưu lại trái tim cho đời, thì đó là kết quả tốt đẹp về lời phát nguyện của tôi hiến dâng thân này cho Đạo pháp và đó cũng là thành quả tu hành của tôi.

- Thứ hai: Khi tôi thiêu, nếu tôi chết trong tư thế nằm ngửa thì nguyện vọng Phật Giáo sẽ thành công, các Thầy cứ tiếp tục tranh đấu. Ngược lại nếu tôi chết nằm sấp thì các Thầy nên tìm cách đi ra các nước Miên, Lào, Thái… để mà tu, nguyện vọng tranh đấu của Phật Giáo không thành.

- Thứ ba: Ngày di quan tài của tôi, nếu quý Thầy có cảm thấy triệu chứng gì là lạ, có thể là ngủ mộng thấy, có thể là cảm giác hay triệu chứng gì thì nên đình chỉ ngay, dời việc di quan ra ngày khác.”

Để chứng minh ba điều mà Bồ Tát Thích Quảng Đức cho biết trước hôm tự thiêu đó là:

- Thứ nhất: Bồ Tát tự thiêu xương thịt cháy hết chỉ có trái tim đốt, sức nóng lên đến 4.000 độ mà không cháy.

- Thứ hai: Thân Bồ Tát ngã xuốngnằm ngửa tư thế viên tịch đúng như lời Bồ Tát nói trước hai Thầy Huệ Thới và Đức Niệm.

- Thứ ba: Giờ di quan đồng bào Phật tử được thông báo của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. Buổi trưa hôm ấy Phật tử thấy một số người mặc sắc phục đen từ những bờ ruộng đi lên gỡ những quả mìn đã đặt lúc nào trên đường dẫn đến lò thiêu An Dưỡng Địa.

Từ những lời nguyện sắt son vì Phật phápBồ Tát đã biết trước những gì sẽ xảy ra đúng như tâm nguyện của mình mà nói trước cho quý Thầy nghe để chứng minh lời nguyền sắt son ấy. Đồng thờiđịnh lực, mà Bồ Tát đã chuyển nghiệp chung của Phật Giáo đồ Việt Nam từ sự nguy nan chuyển thành sự bình an, lợi lạc. Và nhất là Bồ Tát đã để lại Trái Tim Bất Diệt để chứng minh một cách hùng hồn trên tinh thần tu tập - Tam Vô lậu Học, nhơn Giới sanh Định, nhơn Định phát Huệ, để đi thẳng vào lòng người mà hóa giải mọi sự phân tranh, oán tắng. Ngọn lửa Từ Bi và Trái Tim Bất Diệt của Bồ Tát đã thu hút hàng tỷ người trên thế giới theo dõi, dù người đó là Phật tử hay không Phật tử. Tất cả ai cũng đồng ý rằng, một chế độ bạo tàn phi nhân không thể tồn tại trước lẽ phảisự thật. Đây là một bài học chung cho mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới, hãy lấy đó mà chiêm nghiệm cho bản thân để hành xử đúng thì tồn tại mà hành xử sai sẽ diệt vong.

III. Những Nguồn Tin Và Nhận Định Chung

- Thứ nhất: Ký giả Nữu Ước Thời Báo (New York times) David Halberstam đã tường thuật một cách ngạc nhiên và kính nể: “Tôi đã được thấy cảnh tượng ấy, nhưng chỉ một lần đã quá đủ. Lửa phủ khắp người, thân từ từ khô lại, đầu cháy nám, không khí bay mùi khét thịt, thân hình chìm trong lửa đỏ thật kinh ngạc. Phía sau tôi có thể nghe tiếng khóc của những người đang đứng vây quanh và một số lần lượt kéo đến. Tôi qúa xúc động khóc không nên lời, quá bàng hoàng để ghi chép hoặc hỏi vài câu, quá bối rối để suy nghĩ… chìm trong biển lửa nhưng ngài vẫn bất động, thịt gân không nhúc nhích, không một tiếng rên la, thân ngã xuống, những người đang đứng xung quanh òa khóc.” (*)

- Thứ hai: Quảng cáo trên New York Times và Wasinhton Post… ký giả kiêm nhiếp ảnh gia Malcolm W. Broure viết: “Những bức hình mà tôi chụp về cái chết của Hòa thượng Quảng Đức đã trở thành một sở hữu vật của người ta gởi đi khắp cùng thế giới. Những bức hình đó mang nhiều ý nghĩa tùy theo cái nhìn và mục đích xử dụng của mỗi người.” (*)

- Thứ ba: Báo Le Monde, Pháp: “Trước hành động tự thiêu để đấu tranh, kẻ tàn bạo nhất cũng phải chùn bước.” (*)

- Thứ tư: Báo Journal de Geneve tại Thụy Sĩ: “Người ta có thể tuyên truyền rằng đó chỉ là cuộc nổi loạn của phe đa số khắc khổ kiếm chuyện, vì chính phủ chỉ là một thiểu số bó kết chặt chẽ với nhau mà bộ tịch lại vênh váo và cứng nhắc. Những việc phải hy sinhchính pháp của Hòa Thượng Thích Quảng Đức lại cho thấy rằng Phật Giáo Việt Nam đang phải bảo vệ nếp sốngtư tưởng của họ.” (*)

- Thứ năm: Tôi (Bùi Kha) Có người quen ở Orange County cho biết, cách đây gần hai mươi năm, ông Ngô Đình Trác, con trai của bà Ngô Đình Nhu ở tại Pháp cùng với nhà thơ Du Tử Lê đến chùa Việt Nam Los Angeles, California lúc 2 giờ khuya để gặp Hòa Thượng Thích Mãn Giác. Hòa Thượng tiếp đón vui vẻ. Sau khi thắp hươnglễ Phật, Ông Ngô Đình Trác thưa rằng: “Mạ con biểu con qua gặp Hòa thượng và xin Hòa thượng trình lại với Giáo Hội Phật Giáo là Mạ con xin thay mặt gia đình xin sám hối những lời nóiviệc làm trước đây đối với Tăng NiPhật tử Việt Nam…” (*)

- Thứ sáu: Mục sư Donald Harrington tại Nữu Ước: Buổi giảng trong thính đường ở New York ngày 30-6-63: “Cách đây hơn hai tuần, vào ngày 11- 6- 63 có vị sư tên Thích Quảng Đức đã ngồi theo kiểu tọa thiền trên đường nhựa nóng. Trên tay Người cầm một xâu chuỗi 45 hạt và bắt đầu niệm Phật, còn trên chiếc áo cà sa của Người thì đã tẩm xăng. Tất cả Tăng Ni lùi lại, kính cẩn, kinh sợ, khách bộ hành nhận thấy một biến cố phi thường gì sắp xảy ra nên tất cả đều dừng lại chờ đợi. Với vẻ thản nhiên, bình thản trên khuôn mặt, Ngài Quảng Đức niệm lớn “Nam Mô A Di Đà Phật”. Thế rồi Người bật một que diêm và ngọn lửa phừng phực phủ kín thân thể nhưng Ngài không hề rên la hay lay động. Người ngồi thẳng trong 10 phút, thân hình chìm trong lửa đỏ và khi lửa tàn, Người nằm xuống bất động.”(*) Hòa thượng Thích Quảng Đức hy sinh đời mình bằng cách tự thiêu để thức tỉnh lương tâm của Tổng thống Diệm và lưu ý cho toàn thế giới.

- Thứ bảy: Tích Lan, bà Sirimavo Bardarenaike, thủ tướng Tích Lan vô cùng xúc động. Bà kêu gọi các nước theo Phật Giáo tại Á Châu ủng hộ Tích lan trong việc yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp vào vấn đề đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam. Ngày 26-8-63 Hội Nghị Phật Giáo Tích Lan yêu cầu các đoàn thể Phật Giáo trên toàn quốc treo cờ rũ để tang các Phật tử hy sinhtín ngưỡng.

- Thứ tám: Tuyên bố của bộ ngoại giao Hoa Kỳ: “Căn cứ vào các tin loan đi từ Sài Gòn, rõ ràng chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã có những biện pháp đàn áp nghiêm khắc các lãnh tụ Phật Giáo Việt Nam. Hành động này là một vi phạm trực tiếp của chính phủ Việt Nam vào lời cam kết theo đuổi một chính sách hòa giải với tín đồ Phật Giáo. Hoa Kỳ phiền trách các hành động đàn áp loại này.” (*)

- Thứ chín: Liên Hiệp Quốc, với những hình ảnh Phật tử Việt Nam bị đàn áp, bắt bớ, tù đày bởi chính quyền Ngô Đình Diệm được đăng tải vào các trang nhất của hầu hết các báo khắp thế giới, tổ chức Liên Hiệp Quốc mở cuộc điều tra vào ngày 24.09.63. Mặc dù chính quyền Ngô Đình Diệm không cho Liên Hiệp Quốc đến những nơi cần điều tra. Nhưng cuối cùng phái đoàn đã thu thập đủ bằng chứng để kết luận rằng: “Phật tử Việt Nam bị chính quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị, khủng bố, tra tấn, tù đày, giết hại và bắt cải đạo trong nhiều năm qua.” (*)

IV. KẾT LUẬN

Lịch sử Phật Giáo Việt Nam hai nghìn năm qua, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, lắm khi còn lênh đênh theo vận nước nổi trôi, nhưng tính tự tồn, từ bản thể của Tăng Già, từ giá trị đặc thù của nền văn hóa giác ngộ đã un đúctác thành Tăng Già Việt Nam có dòng máu làm Phật, làm Tổ, làm Thánh Tăng, làm chư vị Thiền Sư… để hộ quốc an dân mà ngót một dòng lịch sử thời nào cũng có.

Bồ Tát Thích Quảng Đức ở trong dòng máu làm Phật ấy. Bồ Tát hóa thân vào đời ác năm trược để hiển bày giá trị chân tu thật đức cho con người thấy, mà tự tồn trên lý tưởng giác ngộ.

Bồ Tát Thích Quảng Đức sống chung với thời đại ác, nhưng lòng Bồ Tát luôn Từ Bi để hóa độ người ác. Luôn thương tưởng đến người ác mà ban bố hạnh lành hầu hóa độ cho họ chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành Thánh, chuyển ác tâm thành thiện tâm.

Bồ Tát Thích Quảng Đức thắp sáng ngọn lửa Từ Bi, từ nơi thân xác của Bồ Tát, chỉ vì người, quên thân mình để hộ trì chánh pháp, đây là một triết lý sống cao thượng, vị tha mà chỉ có hạnh nguyện Bồ Tát mới có.

Hôm nay Đại Lễ Hiệp Kỵ lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn lần thứ VII. Đại Giới Đàn Huyền Quang, kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Chùa Cổ Lâm, tất cả Tăng tín đồ nhất tâm đảnh lễ hạnh nguyện độ đời kham nhẫn của Bồ Tát mà học đức tánh Từ Bi vượt thoát. Học trí tuệ siêu việt, tu chứng của dòng máu Tăng Già Việt Nam.

Seattle, ngày 25 tháng 9 năm 2013

Thích Nguyên Siêu

(*) Trích dẫn từ trang mạng Tu Viện Hoa Sen www.thuvienhoasen.org : Ngọn Lửa Quảng ĐứcBiến Cố Phật Giáo 1963 Dưới Cái Nhìn Của Thế Giới – Bùi Kha.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24485)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25998)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13770)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13174)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22043)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19068)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10002)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11906)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13040)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15181)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10536)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21816)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10120)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9844)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9746)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10190)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27382)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17831)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13189)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25140)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34644)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26750)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19062)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13084)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9001)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9132)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11793)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18518)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8775)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10664)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10953)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27998)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17875)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14409)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16360)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13201)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15522)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14691)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7594)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17036)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8385)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30710)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant