Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

24. Hầu Thầy Vào Cảnh Vô Dư Niết Bàn - Nguyên Siêu

15 Tháng Mười 201300:00(Xem: 5327)
24. Hầu Thầy Vào Cảnh Vô Dư Niết Bàn - Nguyên Siêu

HẦU THẦY VÀO CẢNH VÔ DƯ NIẾT BÀN

Lễ Cung Tống Kim Quan Nhập Bảo Tháp

26 tháng 9 năm 2013

Thành kính đảnh lễ Giác Linh Hòa Thượng Bổn Sư thùy từ chứng giám

 

 ht-thich-chi-tin_doc_sach-760

Con kính lạy Giác Linh Thầy tha thiết

Tiễn đưa Thầy cách biệt sơn khê

Ngọn đồi Trại Thủy trăng thề

Sớm đưa gió thoảng chiều quê sương chùng

***

Chùa Long Sơn chấn động

Đồi Trại Thủy bồi hồi

Thầy đi cách biệt xa xôi

Trong giờ nhập Tháp xẻ đôi cõi lòng

 

7:00 giờ sáng nay, Lễ Cung Tống Kim Quan Thầy nhập Bảo Tháp, trên đồi Trại Thủy, sau cốc Ôn Trí Nghiêm.

Quý Ôn Trí Nghiêm, Ôn Trừng San, Ôn Đỗng Minh đều nhập Bảo Tháp nơi đây. Ngẫm ra, chốn này lại là nơi dừng chân hóa độ khi công viên quả mãn của chư bậc Thạch Trụ Tòng Lâm của tỉnh Khánh Hòa, Nha Trang.

Có lẽ tỉnh Khánh Hòa hiền lành như ý nghĩa và tên gọi của nó, cho nên quý Ôn từ phương xa về làm Phật sự và dừng chân luôn ở nơi này, dưới mái chùa Long Sơn từ thuở khai sơn, khi còn là ngôi chùa làng bé nhỏ.

Ôn Trí Nghiêm người tỉnh Phú Yên, Tuy Hòa. Ôn Đỗng Minh người Bình Định, Quy Nhơn. Ôn Trừng San, tuy là người địa phương nhưng ở trên thành, Diên Khánh, và Thầy từ Huế vào. Vì nhân duyên hóa độ mà Thầy dừng chân lại nơi này, từ thuở làm điệu, sơ tâm xuất gia cho đến ngày thành bậc Trưởng Lão Hòa Thượng. Thầy sống nơi đây và cũng viên tịch nơi đây. Cũng như Quý Ôn từ thời trước đến nay, quý Ôn, quý Thầy dừng chân đứng lại dưới mái chùa Long Sơn. Cốc Tre Vàng của Ôn Đỗng Minh. Am Mây Bạc của Ôn Trí Nghiêm. Cốc Bình Minh của Ôn Giải An. Ngay cả Ôn Đức Minh cũng thế. Người tứ xứ đến ở mảnh đất an lành Khánh Hòa làm nên Phật sự. Ngay cả Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang cũng vậy.

Khánh Hòa đất lành, người hiền, hiếu khách nên mời gọi, tiếp đón tất cả - Đất lành chim đậu - như xứ Trầm Hương, lời của nhà thơ Quách Tấn, hay Hoa Khế Lưng Đồi, nhà văn Võ Hồng diễn tả. Địa linh thì có nhân kiệt. Đất của Già Lam, Phạm Vũ nên có Thánh Tăng, Bồ Tát ẩn tu.

Đất Khánh Hòa un đúc khí thiêng vượng tú mà sinh ra Bồ Tát Thích Quảng Đức thời đó. Chừng ấy không thôi cũng đủ thấy được rằng đạo Phật ở tỉnh Khánh Hòa thấm sâu vào nếp sống tâm linh người dân, Phật tử nhuần nhuyễn để cùng làm lợi ích cho đời cho đạo, nên các bậc hóa thân Bồ Tát, Tổ Đức Thiền gia mới tùy duyên trú ngụ để hành Phật sự trên mảnh đất ven bờ biển xanh, cát trắng, thường được gọi là miền Thùy Dương cát trắng nên thơ.

 

Kính Bạch Giác Linh Thầy,

Nhớ khi xưa, thuở còn làm điệu, Thầy cho con đi học với các chú Câu, chú Chỉnh, chú Hảo, chú Bình, chú Hường... nhưng vì chúng điệu đông, không đủ phòng ốc nên đêm đêm các chú ôm chăn mùng, chiếu gối lên chánh điện chùa ngủ nghỉ.

Thời gian cứ thế trôi qua, ngày thì ăn cơm bằng cà-mèn do bà Ba, bà Cả nấu, quét rác, tưới cây, đi học mà lớn dần theo năm tháng bên cạnh Thầy, cạnh người Cha hiền lành, bình dị, mộc mạc, đơn sơ.

Nhớ lại thời Pháp nạn 63, trước cửa chùa, nơi tam cấp đi xuống, tầng trên là bàn thờ của chư Tôn Đức Tăng Ni, Phật tử đã vị pháp thiêu thân, đã hy sinh cho pháp nạn ấy, Thầy đã cùng quý Ôn lo mọi chuyện, cơm ăn, nước uống và nhiều Phật sự khác nữa, khi ấy con cũng nhỏ như các chú điệu khác có biết gì đâu.

Giờ đây, hồi tưởng lại những gì đã có trong thời của Thầy và quý Ôn thì nay đã không còn nữa, tất cả đều ra đi.

Cả một thế hệ quý Ôn thuở ấy, giờ chẳng còn mấy ai, người mất quá nhiều, không làm sao bù đắp kịp.

Thầy lo Phật sự, Thầy làm việc người, Thầy chăm sóc từ con ong cái kiến, dường như chẳng từ nan việc gì. Thầy không giặt áo, Thầy chẳng phơi Y. Việc tự thân Thầy chẳng nhờ. Cứ mỗi lần con vào nhà Thiền, nơi Thầy tiếp khách với cái giường nhỏ Thầy ngồi nơi đó. Chung quanh, từ trên xuống dưới có đủ mọi thứ, Thầy đã không cho con dọn phòng, mà còn nói:

“Đồ để đó, ai tới xin thì mình có sẵn mà cho họ, khỏi mất công tìm kiếm.”

Chai dầu cạo gió, hộp bánh bích quy, sữa bột trẻ con, tiền lẻ… Bề bộn vật dụng để dành sẵn cho người cần. Hạnh của Thầy là thế đó, giống như Hàn San, Thập Đắc hai vị Bồ Tát tu hạnh đầu đà, ăn cơm thừa canh cặn của chúng Tăng, tối kéo nhau vào xó bếp ngủ.

Nhìn chiếc xích đu bên hiên chùa, nơi Thầy ngồi hơn ba mươi năm qua thì mọi người cũng thấu hiểu vật dụng thường ngày của Thầy là những gì rồi. Nếp sống đơn giản, không lệ thuộc vào vật chất bề ngoài, chỉ với chiếc áo tràng đà mỗi khi Thầy bước chân xuống tam cấp nhà Thiền, đi ra sân trước, bách bộ quanh chùa, lên cốc Ôn Trí Nghiêm, Ôn Đỗng Minh mới mặc, nhưng điều đặc biệt là Thầy chỉ mặc có một tay trái, còn tay áo bên phải buông thõng, chẳng xỏ tay vào, ngoại trừ khi lễ lộc, tiếp khách hoặc đi ra ngoài, xuống phố thăm nuôi bệnh nhân và đám sám.

Con liên tưởng đến chư vị hóa thân Bồ Tát, Thiền Sư nghịch hạnh có lắm chuyện kỳ đặc, nghịch đời mà có lẽ Thầy là một trong những vị Bồ Tát kỳ đặc, nghịch đời ấy. Kỳ đặc, nghịch đời ở chỗ, mặc dù quanh năm suốt tháng Thầy chẳng tắm, Y Hậu, áo quần chẳng giặt, chẳng phơi, ấy vậy mà chẳng có mùi hôi. Phải chăng Thầy thuộc hàng “nội bí Thinh văn, ngoại hiện Bồ Tát” nên những thứ phàm tình chúng sinh ấy đều biến mất. Để rồi hôm nay, bao người nghĩ về Thầy, viết về Thầy, nói về Thầy cũng có cùng nhận xét giống như con vậy. Ai ai khi nhắc đến Thầy cũng đều cảm nhận được nếp sống dung dị, đơn sơ của Thầy, người chỉ biết lo cho tha nhân mà quên cả thân mình. Một đời sống phạm hạnh của bậc Thánh giả. Nhưng bạch Thầy, Thầy là bậc Thánh giả đến không vướng mắc, đi chẳng câu nệ có không, mất còn, nhưng chúng con chưa có được cái tâm an nhiên, tự tại như Thầy.

Giờ này, chỉ còn chiếc xích đu trơ trọi bên thềm chùa, không còn bóng dáng Thầy ngồi đó như ngày nào. Không có Thầy để tiếp quý Thầy, quý Phật tử nơi ấy nữa, để cho mỗi người một xâu chuỗi, một quyển kinh, một bức hình Kim Thân Phật Tổ, hay tấm hình cảnh chùa Long sơn… nghĩ đến đây lòng con quặn thắt, bồi hồi.

Kính bạch Thầy,

Chỉ cần nhìn thấy Thầy còn ngồi nơi chiếc ghế xích đu ấy, không làm gì hết, nhưng ấy là linh hồn, là sức sống linh thiêng, màu nhiệm của chùa Long Sơn, của bao thế hệ người đã qua và còn bao thế hệ người sau sẽ đến.

 Thầy ngồi nơi chiếc xích đu, thời gian như một nửa đời người, trông như bóng Cha già che chở cho đàn con. Như cội tùng cổ thụ sớm che nắng, chiều hứng mưa cho bao loài chim muông, cỏ cây tươi thắm. Chiếc ghế xích đu ấy giờ chắc cũng buồn lắm, biết có ai còn để ý đến nó không? Chiếc ghế xích đu mất Thầy như chúng con đã mất Thầy. Chỉ mong có người lưu tâm đến nó, cất giữ lại nơi ấy như một bảo vật, để kỷ niệm như bảo tòa Kim Cương, Thầy đã ngồi để làm Bồ Tát hạnh.

Ngày xưa, Đức Thế Tôn ngồi trên bảo tòa Kim Cang dưới cội Bồ Đềthành đạo. Bây giờ Thầy ngồi trên ghế xích đu mà thị tịch, thật bất khả tư nghì cho hạnh nguyện của bậc Đại sĩ.

Mỗi lần nhìn Thầy trong bức hình thờ nơi phòng làm việc của con, nhìn thấy đôi chân mày quắc thước, dài rậm, bạc trắng hiền từ như Tiên ông, nhưng Thầy là bậc Đạo sư chứ không phải Tiên ông, Thầy đeo nơi cổ xâu chuỗi 108 hạt, và thêm xâu chuỗi 18 hạt cầm trên đôi tay chắp lại. Thấy Thầy như thấy Phật chung quanh Thầy, từ cổ đến tay đâu đâu cũng là Phật.

Sáng nay, trên chánh điện chùa Long Sơn hương trầm lan tỏa, hòa quyện vào vách chùa, mái chùa, ngàn cây, kẽ lá, vào lòng người như muốn lưu lại hình ảnh Thầy. Từng bước chân của Thầy, từng lời nói của Thầy, từng hình bóng của Thầy như tô sâu, in đậm nơi đây, nơi chiếc ghế nhà Thiền, nơi gối quỳ chánh điện, nơi Trai đường với chư Tăng và nơi in dấu cuối cùng của chiếc xích đu lẻ bạn. Ấy là ước muốn của con người, của sự vật, nhưng giờ đã đến ba hồi chuông trống Bát Nhã trầm hùng, thanh thoát để tiễn đưa Thầy vào cõi Vô Dư.

Trước sân chùa, nơi tôn trí Kim quan Thầy, hàng ngàn chư Tăng Ni, Y hậu chỉnh tề, trang nghiêm chấp tay thành kính. Hàng hàng lớp lớp đệ tử tại gia cũng như Gia Đình Phật Tử … lắng tâm mật niệm bái biệt Thầy, trong nỗi đau của người con mất Cha. Lư trầm, hương án, bê, tích, lọng… có Tứ Thiên Vương che lọng hầu Thầy. Đoàn âm công thỉnh Kim Quan Thầy lên vai, bắt đầu lên dốc đồi Trại Thủy.

Cũng con đường mòn ấy. Cũng những cây xanh, lá hoa núi rừng ấy, nhưng sáng hôm nay, cảnh vật như quạnh hiu, buồn thảm, héo sầu… như thấy mình mất mát một cái gì quá to lớn mà gần một thế kỷ qua mình đã có ở nơi đây. Có những con đường mòn lên xuống, những khóm trúc, bụi tre, những giàn thanh long, những hàng phượng vĩ, những vách đá sau chùa. Có tất cả, được xông ướp hình bóng Thầy như hương sen ngào ngạt.

Núi rừng đồi Trại Thủy

Chìm lẳng lặng miên man

Vách chùa rưng rưng khóc

Sân chùa giọt lệ tràn.

 

Ngàn người tiễn đưa, và hàng ngàn người cúi đầu thầm niệm Nam Mô… cánh cửa Bảo Tháp được mở ra, Kim quan Thầy được tôn trí nơi đó, giữa cảnh núi rừng tịch mịch, cây cao bóng cả, rợp mát đất trời thiên nhiên mầu nhiệm.

 

Câu niệm Phật cuối cùng: “Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.”

Thầy Thượng Phẩm Thượng Sanh.

Cánh cửa Bảo Tháp khép lại. Thầy nằm bất động thiên thu giữa núi rừng trăng sao, sương đêm và gió sớm. 

Đây chỉ là nhục thân, tứ đại của Thầy, còn Giác Tánh trạm nhiên, cái linh minh đổng triệt thì Thầy đã trở về Pháp thân, chân như. Thầy tiếp tục con đường hóa độ chúng sinh.

Di ảnh Thầy thờ sau Hậu tổ, mọi người đều đã ra về.

Cảnh chùa vắng lặng!

Một cảm giác trống vắng lạnh lùng, bâng khuâng, thiếu thốn…

 

Mất Thầy như mất cả hình ảnh từ hòa, dung dị. Mất cả tấm lòng từ bi, chăm sóc, yêu thương.

Con ngồi đây nghĩ về Thầy, về một cảnh đời 50 năm qua, giờ như bóng câu cửa sổ. Bao lớp người trước đã đi qua, bao lớp người sau rồi lại đến. Những tiếp nối vô cùng của cuộc tử sinh.

Ba tiếng chuông gia trì nhẹ nhàng, trầm ấm, quỳ trước di ảnh Thầy, cầm nén hương nhất tâm cầu nguyện để hầu Thầy vào cảnh Vô Dư Niết Bàn.

Kính nguyện Thầy Cao Đăng Phật Quốc.

 

 Chùa Phật Đà, ngày 26 tháng 9 năm 2013

Đệ tử

Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17651)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24484)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25985)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13770)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13174)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22043)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19068)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10002)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11906)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13039)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15181)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10536)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21815)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10119)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9843)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9744)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10189)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27381)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17831)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13189)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25140)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34643)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26749)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19061)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13084)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9001)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9132)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11793)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18517)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8775)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10664)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10951)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27995)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17875)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14409)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16360)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13201)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15522)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14689)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7594)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17035)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8385)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30709)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant