Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đi Tìm Dòng Sông Trong Huyền Thoại Của Thiền Sư Liễu Quán

20 Tháng Mười 201300:00(Xem: 3566)
Đi Tìm Dòng Sông Trong Huyền Thoại Của Thiền Sư Liễu Quán
tosulieuquan

ĐI TÌM DÒNG SÔNG TRONG HUYỀN THOẠI CỦA 
THIỀN SƯ LIỄU QUÁN


Hồ Đắc Duy


Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài. Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
 
Thật bất ngờ trước chùa và chung quanh chùa không có con sông nào cả , hỏi thăm các cư dân ở trong vùng họ bảo ở đây không có sông mà chỉ có khe và suối nhỏ. Tự nhiên ,trong tôi, giòng sông trở thành một thúc bách ám ảnh trong một thời gian khá dài . Giòng sông là một ẩn dụ . Sông , suối hay khe đây? với 300 năm biết bao vật đổi sao dời , sông biến thành suối hay khe cũng là chuyện thường tình . Ba trăm năm trước núi rừng Thiên thai đầy cọp dữ với những cây cao cỗ thụ với những tàng thông bạt ngàn , khu rừng rậm ở đây là phần đất bìa của dãy Trường Sơn . Đứng trên núi Ngự Bình có thể định vị đỉnh núi Thiên Thai và các hòn núi đá bên cạnh nó xanh ngắt nhưng bây giờ trống trơn , xói mòn có nơi nhà cửa san sát.

Tôi trở vào chùa lúc đó hoàn hôn đã xuống và ở đâu đó trong ngôi chùa vẩn còn âm vang những câu nói về giòng sông này.

Sách Ô Châu Cận Lục của Dương văn An năm 1555 , trong bài tựa ông viết : " kể từ thời mở nước Việt ta , do hoạch dịch tự sách trời, ngoài bốn thừa tuyên thì người Chấu Ái khẳng khái hiếu nghĩa tinh thần hiếu học , Châu Hóa ta tiếp liền xứ Quãng…Xét miền Ô Lý nước ta nối liền với cõi Nam hoang vu… Tuy nhiên khảo cứu tận nguồn đất này , thì trước đời Lý Trần , vẫn là bờ cõi của Chiêm Thành , về đời Hồ Lê mới là quận huyện của triều đình … "

Trong Đại Nam nhất thống chí, theo Hán Thư thì Nhật Nam là Tượng Quận nhà Tần xưa năm Nguyên Đỉnh thứ I đổi làm quận Nhật Nam , Tỵ Ảnh và Chu Ngô là 2 trong 5 thành của quận Nhật Nam đến đời Hán là ứng với châu Ô và châu Lý của Chiêm Thành thời bấy giờ 

Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư , quyễn VI trang 91 cho biết năm 1306 Hai châu Ô, Lý đựơc vua Chiêm Thành là Chế Mân dâng để làm lễ dẫn cưới công chúa Huyền Trân , năm sau (1307) hai châu này được đổi tên là Thuận Châu (nửa nam tỉnh Quảng Trị hiện nay); và Hóa Châu (toàn tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay) 2 châu này được vua Trần Anh Tông giao sai Hành Khiển Đoàn Nhữ Hải đến vỗ yên dân vùng này. Thuận Hóa dần dần trở thành nơi gặp gỡ và giao lưu hai nền văn hóa, tín ngưỡng rất khác nhau . Dân Đại Việt chịu ảnh hưởng văn hóa và tín ngưởng của người Hoa , trong khi dân bản địa là Chiêm Thành có một nền văn hóa Ấn - Hồi.

Dưới sự nam tiến mạnh mẽ đạo Phật đã nổi bật lên là một tôn giáo mới . Vào thời các chúa Nguyễn, xứ Thuận Hóa đã có vô số chùa chiền và thảo amThiền sư Liễu Quán, từ phủ Phú Yên đi theo thuyền buôn ra Thuận Hóa vào năm 1690 , khai sơn thảo am Viên Thông vào khoảng năm 1697 phía nam dưới chân núi Ngự Bình , sau đó vào khai sơn thêm một thảo am ở chân núi Thiên Thai gần đó vào năm 1708 , trong Đại Nam Nhất Thống Chí quyễn 2 , trang 126 mô tả ngọn núi này như sau : Núi Thiên Thai ở phía tây bắc huyện Hương Thủy hình thế cao vót , phía tây trông ra cánh đồng bằng , cạnh núi có chùa, gọi là chùa Thiên Thai Nội ( Thuyền tôn ) , ngọn núi vòng quanh ôm chầu vào chùa, phong cảnh tuyệt đẹp… " , núi Thiên Thai nổi tiếng có nhiều cọp dữ , ở địa phương có câu ca " núi Thiên Thai , mười hai con cọp''. Thiền sư đã ăn rong , uống nước suối để sống , quyết chí tu hành cho đến khi đến đắc đạo

MÔN PHÁI LIỄU QUÁN

 

Nếu ở Ðàng Ngoài thiền sư Chân Nguyên được xem là nhân vật then chốt để phục hưng Phật Giáo , thì ở Ðàng Trong thiền sư Liễu Quán cũng được xem là vị thiền sư lãnh đạo công cuộc phục hưng Phật Giáo.

Thiền sư Liễu Quán là người làng Bạc Mã, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên, sinh năm 1670 (Nguyễn Lang , Thích Tín Nghĩa )( TT Thích thiện Siêu , TT Khế Chơn , viết ngài sinh năm 1667 ) từ một gia đình nghèo. Thiền sư mồ côi mẹ từ hồi lên sáu tuổi. Năm mười hai tuổi người đi chùa Hội Tôn với cha. Gặp thiền sư Tế Viên, người xin ở lại chùa để học đạo. Được cha ưng thuận. Làm chú tiểu ở chùa Hội Tôn, người được thiền sư Tế Viên thương yêu. Ở chùa, ngoài việc nấu nước, nhặt rau thì học chữ Hán, hai thời khóa tụng, luật sa di và những kinh điển dễ học. Chín năm sau, thiền sư Tế Viên thị tịch. Tang lễ của thầy làm xong, một mình lên đường học đạo.

Năm 1690, người ra Thuận Hóa , núi Hàm Long (Bảo Quốc), cầu học với thiền sư Giác Phong. Người được chấp nhận ở lại đây để tu học. Được một năm người lại nghe tin thân phụ bị bệnh. Xin phép trở lại quê nhà để lo săn sóc cha. Hàng ngày lên rừng đốn củi, đem về đổi vạo nấu cơm . Bốn năm sau, thân phụ từ trần. Lo ma chay cho cha xong, người lại lên đường vào Thuận Hóa học đạo. Năm 1695, nghe nói thiền sư Thạch Liêm tổ chức giới đàn lớn tại chùa Thiền Lâm, người đến xin ghi tên thụ giới tỳ khưu tại giới đàn do thiền sư Từ Lâm là Hòa Thượng Ðường Ðầu. Lúc thiền sư khai sơn thảo am Viên Thông năm 1697, lúc mới có 27 tuổi. Ở đó được 2 năm, thiền sư lại lên đường cầu học, tham lễ khắp các tổ đình.

Năm 1702 được gặp thiền sư Tử Dung tại chùa Ấn Tôn núi Long Sơn (Từ Đàm), Thuận Hóa. Thiền sư dạy người tham khảo về công án: " Muôn pháp về một, một về chỗ nào? " (Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?). Người về núi Phú Yên tĩnh cư, tham cứu đến 5 năm mà chưa phá vỡ được công án ấy. Một hôm đọc Truyền Ðăng Lục đến câu "trỏ vật mà truyền tâm, chính vì vậy mà người ta không hiểu" (Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ), thoạt nhiên người thấy tỏ ngộ, bèn buông sách xuống. Năm 1708 người vào Thuận HóaViên Thông rồi vào núi Thiên Thai , khai sơn một thảo am ở đây, trở lại Long Sơn, trình bày công phu của mình với thiền sư Tử Dung. 

 

Ngài Tử Dung nói: 

Hố thẳm buông tay
Một mình cam chịu
Chết đi sống lại,
Ai dám chê mình. 

Thiền sư vỗ tay cười. Ngài Tử Dung nghiêm nét, nói: "Chưa được". Người lại nói: "Trái cân vốn là sắt" (Bình thùy nguyên nhị thiết). Tử Dung lắc đầu.

Sáng hôm sau, ngài Tử Dung thấy người đi ngang, gọi lại bảo: "Chuyện ngày hôm qua nói chưa xong, hôm nay hãy nói lại xem". Thiền sư đọc: 

Sớm biết đèn là lửa
Cơm chín đã lâu rồi!
 
Bây giờ ngài Tử Dung không tiếc lời khen ngợi. Mùa hè năm 1712 khi hai vị thiền sư gặp nhau lần thứ ba tại đại lễ Toàn Viện tại Quảng Nam, thiền sư đem trình ngài Tử Dung bài kệ Tắm Phật mà người mới làm. Tử Dung hỏi: "Tổ truyền cho tổ, Phật truyền cho Phật, chẳng hay họ truyền nhau cái gì nhỉ?" (Tổ tổ tương truyền, Phật Phật thụ thụ, vị thẩm truyền thụ các thập ma?). Thiền sư Liễu Quán đọc liền hai câu: 

Búp măng trên đá dài hơn trượng,
Cây chổi lông rùa nặng mấy cân.
(Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng
Quy mao phủ phất trong tam cân)

Ngài Tử Dung lại đọc: 

Chèo thuyền trên núi cao
Phi ngựa dưới đáy biển
(Cao cao sơn thượng hành thuyền
Thâm thâm hải để tẩu mã)

thiền sư lại đọc tiếp: 

Dây đứt đàn tranh chơi suốt buổi
Gảy sừng trâu đất rống thâu đêm
(Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống
Một huyền cầm tử vận nhật đàn) 
Ngài Tử dung gật đầu tỏ ý rất bằng lòng.

Thiền sư Liễu Quán lúc bấy giờ đã 42 tuổi. Người đã có nhiều đạo tràng hành đạo: đó là chùa Thuyền Tôn, chùa Viên ThôngThuận Hóa và các chùa Hội Tông, Cổ Lâm và Bảo Tịnh ở Phú Yên. 

Bốn giới đàn lớn được tổ chức từ 1733 đến 1735 tại Thừa Thiên, có sự tham dự của các bậc cao tăng và các bậc tể quan cư sĩ ở kinh đô; thiền sư Liễu Quán được thỉnh cầu làm tọa chủ
 
Giới Phật tử rất hâm mộ ngừõi , năm 1740 hội chúng lại thỉnh cầu thiền sư chủ tọa giới đàn Long Hoa. Xong giới đàn này, trở về chùa Thuyền Tôn

Năm 1742, lúc ấy thiền sư đã 72 tuổi (Thích Tín Nghĩa ) (76 ?), Thiền sư vẫn được cử làm Hòa Thượng Ðường Ðầu của giới đàn tổ chức tại chùa Viên Thông

Ðệ tử thụ giới của thiền sư kể cả xuất gia lẫn tại giatới gần bốn ngàn người. 

Mùa thu năm ấy,Thiền sư Liễu Quán an trú tại chùa Viên Thông; sáng ngày 21 tháng 11 âm lịch năm Nhâm tuất ( 1742 ) , người gọi thị giả mang giấy bút , và viết bài kệ sau đây:

Ngoài bảy mươi năm cõi sắc không
Sắc không không sắc đã dung thông
Sáng nay vẹn ước, về quê cũ
Há phải tìm cầu hỏi tổ tông 
(Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà Tất bôn mang vấn tổ tông?) 
 
Viết bài kệ xong, thiền sư ngồi dùng trà. Ðại chúng làm lễ, có người than khóc. Người nói: "Quý vị đừng khóc. Các đức Phật thị hiện còn nhập Niết bàn, còn tôi thì đường đi nẽo về đã rõ ràng, không việc chi phải khóc". Mọi người im lặng
Thầy trò nói chuyện hồi lâu, ông hỏi: "Ðã đến giờ mùi chưa?" Mọi người đáp: "Phải". Thiền sư Liễu Quán nói: "Sau khi tôi đi, quý vị phải nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập trí tuệ, chớ quên lời dặn của tôi". 

Nói xong thiền sư nhắm mắt mà tịch trong tư thế kiết già.

Chúa Nguyễn Phúc Khoát rất sùng kính đạo hạnh của người, nhiều lần triệu thỉnh vào phủ, nhưng thiền sư một mực từ chối, không muốn lui tới nơi triều đình. Vì vậy, chúa thường tới chùa Viên Thông để thăm và hỏi đạo

Khi nghe tin thiền sư thị tịch chúa sắc làm bia và tháp cho người, và ban thụy hiệu là "Ðạo Hạnh Thụy Chính Giác Viên Ngộ Hòa Thượng".

Tháp người được dựng tại thảo am dưới chân núi Thiên Thai. Thiền sư là người thuộc đời thứ 35 dòng Lâm Tế. Thiền sư đã để lại bài kệ truyền pháp sau đây : 

Thiệt tế đại đạo
Tính hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận,
Ðức bổn từ phong
Giới định phúc tuệ
Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả
Một khế thành công
Truyền trì diệu lý
Diễn xướng chính tông
Hành giải tương ứng
Ðạt ngộ chân không 

Dịch: 

Ðường lớn thực tại
Biển thể tính trong
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng
Giới định cùng tuệ
Thể dụng viên thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công
Thuyền giữ lý mầu
Tuyên dương chính tông
Hành giải song song
Ðạt ngộ chân không

Thiền sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một thiền phái linh động, có gốc rễ ở Ðàng Trong. Trước thiền sư, Phật Giáo ở Ðàng Trong mang nặng màu sắc Quảng Ðông. Người đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế, và làm cho thiền phái này trở thành thiền phái của đa số Phật tử Ðàng Trong. Kiến trúc lễ nhạc bắt đầu trút bỏ màu sắc Trung Quốc và từ từ mang lấy màu sắc dân tộc. Những bài tán lễ như "Cực lạc Từ Hàng" , đã hoàn toàn mang màu sắc Việt Nam

Bốn vị đệ tử lớn của người là Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu dã tạo lập bốn trung tâm hoằng đạo lớn, và hàng chục tổ đình được tạo dựng khắp Ðàng Trong trong thế kỷ XVIII đã thuộc về môn phái Liễu Quán. ( trích tác giả Nguyễn Lang ) 

Thiền sư Liễu Quán trở thành một vị Tổ của một phái Thiền gọi là Thiền phái Tử Dung-Liễu Quán, mà ảnh hưởng của Thiền phái này bao trùm Đàn Trong từ 3 thế kỷ cho đến nay. 

CHÙA THUYỀN TÔN VỚI THỜI GIAN 

Mười hai năm sau khi khai sơn thảo am Viên Thông , thiền sư Liễu Quán đi vào chân núi Thiên Thai ở gần đó , người dựng lên một thảo am khác mang tên Thuyền tôn vào năm 1708 ( Nguyễn phúc Chu 1691-1725, Lê Dụ Tông 1705-1728) Thảo am tọa lạc tại đia phận ấp Ngũ Tây, xã An Cựu, tổng An Cựu, huyện Hương Thủy. tỉnh Thừa Thiên.

Năm thứ 3 Cảnh Hưng (1742 ) ( Lê Hiễn Tông 1740-1786) Thiền sư viên tịch
Năm 1747, tức 5 năm sau khi thiền sư Liễu Quán qua đời, chùa Thuyền tôn được chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) ban biển ngạch sắc tứ.Cũng cũng vào năm này Đoàn Tài Hầu là quan thái giám đứng ra hô hào thiện nam tín nử đúc đại hồng chung , chuông có niên đại Cảnh Hưng năm thứ 8 (6 ?) .

Năm 1777 (Nguyễn phúc Thuần 1765-1777) chùa Thuyền tôn được sửa sang lần thứ nhất 

Thời đầu Tây Sơn xã hội loạn lạc vừa chiến tranh Trinh - Nguyễn vừa chiến tranh giữa chúa Nguyễn và anh em Tây Sơn kéo dài từ 1771 cho đến 1789 tất cả tài nguyên nhân vật lực kể cả đình chùa , miếu mạo bị bỏ phế hư hại nặng nề cho đến năm Kỷ Dậu (1789) khi Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đánh bại quân Mãn Thanh thì xã hội bấy giờ mới tạm yên , kỷ cương mới được tái lập , chùa chiền mới được sửa sang trùng tu lại

Năm 1793 bà Đốc Hựu phát nguyện dựng lại chùa tranh , thiện nam tín nử càng ngày càng đông. 

Năm 1799 Hoàng đệ Thái Tể, ủy cho Đại Tư Mã tái tạo sửa sang chùa lần hai 
Năm 1803 Khi Gia Long đã lên ngôi Hoàng đế , Hòa thượng Trung Hậu. xin lại đại hồng chung và chuông lại được mang về chùa Thuyền tôn vì vàp thời Tây Sơn, hồng chung bị đem làm tự khí ở Văn Thánh

Vua Gia Long sắc cấm Ba gò Huyền Võ của núi Thiên Thai, giếng xưa bên chùa sửa lại bờ thành, Cảnh chùa có nơi xây nhà ngói, nơi dựng nhà tranh, chỉ trong 4, 5 năm, quan cảnh chùa trở lại như xưa.

Năm 1807 dựng nhà phương trượng
Năm 1809 dựng chánh điện, tiền đường, phạm vũ trở lại nguy nga. 
Năm 1815 các môn đồ trùng tu tháp Tổ và dựng hai bia
Năm 1885 kinh đô thất thủ 
Năm 1886 cải sửa tụ vũ. 

Năm1898 đệ tử Quảng Kế . . . phung phá tự điền tự, khí thờ mất mát chùa lại rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát.

Năm 1899 tăng ni phật tử xin sửa sang lại văn khế đã mục nát, đổi dời kiến thiết tự vũ đem trở lại trên nền cũ, cấu tạo hậu điện. 

Năm 1900, sửa san lần thứ ba , làm lễ khánh tán, vạn pháp viên mãn …như vậy trải qua gần 200 năm ba lần tụ ba lần tán

Năm 1937 Đệ tử đời thứ 10 của thiền sưHòa thượng Trừng Thủy - Giác Nhiên tổ chức đại trùng tu ngôi chùa.

Năm 2000 chùa được trùng tu với cửa tam quan , tháp chuông , điện thờ. hậu liêu , văn phòng… nguy nga đố sộ , Ngôi chùa đựơc che khuất bởi những cây thông già . Chùa Thuyền Tôn hiện nay có dáng dấp của nét kiến trúc cổ được xi măng và điên khí hóa có hệ thống thờ tự truyền thống. Ở chánh điện, án giữa thờ Phật Tam Thân, phía trước là tượng đức Phật Thích-ca. Tiền án thờ tượng Bồ-tát Chuẩn Đề hai bên là ảnh vẽ Bồ-tát Văn-thù và Bồ-tát Phổ Hiền. Tiếp đến là bàn chuông, mõ. Án tả thờ Bồ-tát Quan Âm, hai bên có ngài Xá Lợi Phất và ngài Ca-diếp. Án hữu thờ Bồ-tát Địa Tạng. Ngoài ra còn có hai án thờ Thập điện Minh Vương ở hai bên vách. Phía ngoài là hai bàn thờ Hộ PhápQuan Thánh

Hiện nay chùa tọa lạc ở thôn Ngũ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế Nơi chùa được xây cất hiện nay không biết nó có nằm đúng trên nền củ của chùa xưa hoặc thảo am hay là nó được dựng một chổ khác 

Nguyễn Du đã mô tả cảnh chùa qua bài thơ Vọng Thiên Thai Tự , Nguyễn Du cho biết ống đã đến viếng chùa 2 lần , lần thứ 2 có lẽ ông không vào chùa được vì bị vướn một con sông , nên chỉ đứng bên này sông mà ngắm cảnh chủa . Bài thơ sáng tác vào thời gian 1805-1812 khi Ông được thăng hàm Đông Các Đại Học Sĩ , làm quan ở kinh đô 5 năm . Bài thơ như sau :

Thiên Thai sơn tại đế thành đông
Cách nhất điền giang tự bất không.
Cổ tự thu may hoàng diệp
Tiên triều tăng lão bạch vân trung
Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung.
Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo
Cảnh Hưng chung quải cựu thời trung

Núi Thiên Thai ở phía Đông hoàng thành ,Cách một dòng sông không đến được, Mùa thu, chùa cổ như vùi trong lá vàng ,Vị sư triều trước già trong mây trắng , Khá thương mình đầu bạc rồi vẫn phải chịu để người sai khiến , Không cùng với núi xanh giữ được niềm thủy chung, Nhớ năm trước ta từng một lần đến đây ,Còn thấy có treo quả chuông đúc thời Cảnh Hưng ngày trước

Hoặc theo lời mô tả của TT Thích Thiện Siêu : " Hiện nay cách phía sau tháp độ 800 mét có chùa Thiền Tôn do Ngài sáng lập và các đệ tử tiếp tục thừa kế trùng tu còn được đẹp đẽ khang trang, trong đó có quả đại hồng chung đúc năm Cảnh Hưng thứ 8 (1747) là di vật quý nhất."

, , , , , " Hiện nay cách phía sau tháp độ 800 mét có chùa Thiền Tôn do Ngài sáng lập và các đệ tử tiếp tục thừa kế trùng tu còn được đẹp đẽ khang trang, trong đó có quả đại hồng chung đúc năm Cảnh Hưng thứ 8 (1747) là di vật quý nhất."

DÒNG SÔNG TRONG HUYỀN THOẠI
 
Nhiều tác giả mỗi người nói một cách khác nhau về câu chuyện thiền sư ăn rong để sống trong tiểu sử của ngài , người cho rằng ngài ăn rong khe , uống nước suối độc( Hà Xuân Liêm ) , kẻ thì nói thiền sư ăn rong ở hồ (Tầm rong độ nhật…. khi thiền sàng chỉ là bông cây thảm cỏ , rong xanh đáy hồ đã duy trì mạch mạng sắc thân … TT Tích Khế Chơn ) người thì khẳng định ngài ăn rong con sông trước mặt chùa 

Vậy thì sự thật rong lấy ở đâu ? sông , hồ , khe hay suối ?
 
Dù chỉ là huyền thoại về câu chuyên thiền sư Liễu Quán đã ăn rong để sống nhưng chúng tôi nghĩ tìm được địa chỉ nơi ngài đã từng lấy rong quả thật là hạnh phước tuyệt vời cho những ai tìm ra
 
Thử vẽ phát trong tâm trí cảnh một sa di lội xuống sông vớt một bè rong , để lên rỗ , mang về thảo am . phơi… và khi vị thầy tu trẻ qua đường bằng thứ rong đó
Cơm hay rong đối với ngài cũng chẳng khác chi nhau như ngài đã từng viết trong bài kệ : Không không sắc sắc diệc dung thông

Thử tưởng tượng bước chân hành thiền của vị sa di một mình , đơn độc trong rừng vắng dầy cọp beo và rắn độc mỗi lân đi vớt rong để đòi sống được tồn tại , một người trẻ tuổi đã hành thiền trong mọi sinh hoạt thường nhật của cuộc sống
Và khi về già , trước khi viên tịch ngài đã nói cùng môn đồ "Quý vị đừng khóc. Các đức Phật thị hiện còn nhập Niết bàn, còn tôi thì đường đi nẽo về đã rõ ràng, không việc chi phải khóc" Đúng như ngài nói : Người đến nơi thảo am Viên Thông lúc còn rất trẻ và trở về lại Thiên thai nội tự đã ngoài bảy mươi

Câu chuyện đi tìm giòng sông lần 2 trong chuyến ra thăm chùa Thuyền Tôn vào tháng 8 năm 2007 sau khi đã góp nhặt kinh nghiêm đi tìm con sông trong bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan , chúng tôi đã phải tham khảo các tài liệu trứõc đó nhiều tháng một cách cẩn trọng về đia lý hình thể sông suối núi non vùng Thiên Thai , Ngự Bình , Trường Bia , Thiên An , Trúc Lâm , Ba Đồn ... các chùa gần đó như Viên Thông , Tra Am , Tây Thiên ,Trúc Lâm , Hồng Ân , Diệu Viên ...tựõng đài Huyền Trân , khu vực chín hầm , cơ ngơi của ông Ngô đình Cẫn , bảo tháp của thiền sư…trên sử liệu rồi mới vẽ sơ đồ dự đoán trước khi thăm dò quan sát thực địa
 
Sửa soạn lặn lội những nơi có thể tới được để tìm ra gốc gát mạch nguồn của giòng sông thiên liêng ấy tôi đã để tâm hồn trống rỗng
 
300 năm thì sông cũng có thể đã là thành khe thành suối , thành ao, thành hồ , nhưng dấu xưa ắc hẵn vẫn còn đâu đó , lời của thiền sư hình như vẫn còn âm vang trong gió qua những đọt thông già , tôi đi trong miêng mang , tại sao mình không đi như trò chơi đi tìm kho báu của thời niên thiếu của một thời hướng đạo , Phật tử… 
 
Một chỉ dẫn được hướng đạo từ vô thức không lý giải : Giòng sông huyền thoại đó đã hiện ra trước mắt tôi , cho dù thiên nhiêncon người đã làm biến dạng khuôn mặt thế gian nhưng hình ảnh vị sa di trẻ tuổi đang trên đường đi tìm chứng quả mà phải tầm rong độ nhật để duy trì mạch mạng sắc thân đã trở thành một ấn tượng hướng những bước chân tôi đến giòng sông đó

Tôi vẫn tin mấy câu của Nguyễn Du trong bài Vọng Thiên Thại Tư là thật
Thiên Thai sơn tại đế thành đông
Cách nhất điền giang tự bất không.
Cổ tự thu may hoàng diệp lý…
 
Và tôi nghĩ hướng về ngài với những bước chân trong rừng thông vắng lặng , Tai tôi cố nghe tiếng róc rách chảy qua khe đá , tiếng rì rầm của giòng suối hay sự lặng thinh của một con sông đang chảy âm thầm dịu dàng dưới chân núi Thiên Thai , mũi cố ngữi thấy mùi rong mới vớt , miệng lưởi tôi cố quên vị tanh tao và nhạt nhẻo của rong và trước mắt tôi là một khoảng không gian mờ ảo
Giòng sông , giòng sông , giòng sông ở đâu ? vang lên từ một cỏi mơ hồ nào đó vọng lại hay từ tiền kiếp xa xưa

Hình ành vị sa di trẻ tuổi hiện ra trước mắt tôi , vị sa di mà về sau này đã trờ thành tổ sư của Thiền phái Tử Dung Liễu Quán , giòng sông nằm sau lưng người về hướng tây , bên kia sông là một ngọn núi đúng như câu ghi hai câu đối nơi cổng tường đi vào bảo tháp của người: "Bửu đạt trường minh bất đoạn môn tiền lưu lục thủy; Pháp thân độc lộ y nhiên tạo lý khán thanh sơn" (Tiếng linh báu ngân dài cùng dòng nước lục trước cửa chảy hoài không dứt; Pháp thân lộng y nhiên bất động ngắm núi xanh) đã mô tả

Và tôi cũng chợt thoát ra khỏi cơn…vội vàng định vị ngay tọa độ mình đang đứng : Đó là trước của tam quan nơi bảo tháp của người , tôi chỉ còn dùng bước chân mình để đo khoảng cách từ chân hồ sen đến giòng sông

Ngày hôm sau , tôi cùng mấy ngưới bạn cũ , chống gậy , vạch lau , đạp cỏ leo lên một triền núi nhỏ , rồi đi qua một cánh đồng dốc thoai thoải theo dấu chỉ dẫn cùa HT Thiện Siêu là cách phía sau tháp độ 800 mét để đến một ngôi chùa nổi tiếng ở Huế và điều này cũng đúng như nhận xét của Đại Nam Nhất Thống Chí quyễn II , trang 203 " Chùa Thiên Thai nội ở xã Dương Xuân có tên nữa là Thuyền Tôn ( Thiền Tông ) . Tương truyền do Liễu Quán hòa thượng dựng dựa vào núi , trông ra đồng bằng , phong cảnh cũng đẹp…"

Bây giờ , trước bảo tháp của thiền sư Liễu Quán là một con đường đất đỏ , một khoảng đất trống chừng một mẫu và nghe đâu chủ nhân của mãnh đất này muốn thực hiện một…
và giòng sông thì vẫn còn đó , nhưng biến dạng đến đau đớn.

Nếu có một lần nào đó bạn được nhìn sông Tô Lịch của Hà Nội , ba mươi sáu phố phường hôm nay và thật diễm phúc cho những ai như quan Phủ Sứ Đặng Vân đã nhìn thấy giòng sông Tô Lịch khi công chúa Huyền Trân rời kinh độ Đại Việt về Vijaya 

Và cũng như vậy tâm trạng của Nguyễn Du khi dứng trước giòng sông trong huyền thoại cua thiền sư Liễu Quán 

Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung.
Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo 
Cảnh Hưng chung quải cựu thời trung

Còn bạn xin hãy ghé thăm ngôi bảo tháp và con sông huyền thoại bây giờ

BS Hồ Đắc Duy
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8020)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35558)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11707)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23194)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13356)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5846)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10621)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10359)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10059)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20868)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6207)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6856)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8899)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6018)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18159)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6354)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6733)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6556)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5874)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7893)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10207)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7876)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9872)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9085)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5986)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24554)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36399)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7731)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11551)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10048)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5229)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5421)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10004)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7886)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9370)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8662)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46530)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6907)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12321)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5799)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14512)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12995)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12439)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14568)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12434)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10956)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9639)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16708)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8482)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5972)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9959)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6377)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11354)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7047)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46715)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13506)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8397)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6861)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9179)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17857)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18179)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15806)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6959)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31254)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9583)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7696)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21629)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34178)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33325)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14241)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35671)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13010)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15783)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13692)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33047)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26383)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41421)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40361)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20058)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33717)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29685)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33734)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18878)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22721)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22447)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49008)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11968)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11165)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22522)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18009)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15120)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22694)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16005)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13118)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19725)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant